Không, truất phế chưa đủ. Diệm và Nhu phải bị giết, và phải là các tướng lĩnh của Diệm ra tay. Coein đã tác động đến việc này mà không cần khổ công gì cả. Một chú thích sau cùng về bản chất của Coein? Chưa đầy muời năm sau đó, E. Howard Hunt, gián điệp “đột nhập”(black-bag) của CIA đã cân nhắc kỹ việc tuyển Coein làm thành viê của nhóm chuyên đột nhập mà sau này khét tiếng với tên gọi Những tên đột nhập Watergate. Về chuyện này, Coein quả quyết: “Nếu có tôi, chúng ta làm ăn đàng hoàng hơn”.(53) [(Fussel, James A,” Coein....Lucien. Who Was He?”( Kansas City Star: 20.9.1998)] Cho nên có một nhận định khá rõ về Lucien Coein. Tránh né- thật chất là phớt lờ- người phụ trách của mình( Richardson, Giám đốc Phân bộ CIA tại Sài Gòn), Coein làm việc trực tiếp với Lodge, và Lodge làm việc trực tiếp với Kennedy. Thật sự, tác giả Neil Sheehan mô tả Coein đúng hơn hết: “Chỉ có vài gián điệp từng có được cơ hội leo lên đỉnh cao nghề nghiệp bằng việc sắp đặt cuộc lật đổ một chính phủ. Coein mang quyền lực của nước Mỹ để tác động các tướng lĩnh bắt họ phải tuân lệnh”.(54) [(Sheehan.)] Coein là sứ giả của thần chết đứng giữa lương tri của Nhà Trắng và cuộc cách mạng đã chôn vùi chính quyền hợp hiến Nam Việt Nam, một chính quyền mà Mỹ đã hết lòng ủng hộ từ năm 1954. Một đồng minh. Chúng ta vừa tìm hiểu qua về Coein, một diễn viên chính, bây giờ hãy nói về vài nhân vật khác, và đưa ra thêm vài luận điểm nằm chỉ ngón tay kết tội chính phủ Kennedy nói chung và Kennedy nói riêng. Nhưng trước hết hãy tóm tắt lại: JFK thực sự là kẻ thù kiên định của chủ nhgiã cộng sản, nhưng khi bộ mặt thật của Diệm bắt đầu lộ rõ- một kẻ khủng bố, một bạo chúa, một nguyên thủ quốc gia mà lại bắt bớ tăng ni và trẻ em đưa vào trại tập trung- Kennedy bị dội ngược về mặt chính trị, như bất cứ ai khác. Nhưng thay vì nói với dân chúng Mỹ: “Chao ôi, chúng ta đã phạm một sai lầm lớn ở đó. Thì ra cái tay Diệm này đang đàn áp một tôn giáo chiếm đa số, cho nên chúng ta cần phải làm điều gì đó,” Kennedy đã quyết định sử dụng đúng cái thủ đoạn đã cứu ông trong thời gian xảy ra vụ Khủng hoảng Tên Lửa Cuba:” các kênh thônh tin cửa sau” bí mật dàn xếp vấn đề. Kennedy đã hoàn toàn phớt lờ những người am hiểu tình hình nhất. Không ai trong giới quân sự và chính trị ở Mỹ thật sự ưa thích Diệm, nhưng chừng nào họ còn muốn ngăn chặn cộng sản tại Nam Việt Nam, thì Diệm vẫn được coi là vũ khí tốt nhất dưới mắt các cố vấn tiền phương tài giỏi nhất của Kennedy. Và rồi hoá ra, nhũng ông cố vấn này- chẳng hạn Đại sứ Nolting, Giám đốc Phân bộ CIA Riichard, Tướng Harkins phụ trách nhóm Cố vấn Viện trợ quân sự Mỹ, Giám đốc CIA John McCone và phụ tá William Colby- đều đúng. Nhà văn, nhà sử học, Gíao sư C.L.Corey nói về điều này rất ấn tượng trong bài báo ra tháng ba, 1999: “Chính quyền Kennedy và các phương tiện thông tin đại chúng, bằng cách tiêu diệt chính quyền Nam Việt Nam, đã biến cuộc chiến tranh trở thành con quái vật không đầu”(55) [(Corey, C.L, Whatever Shot Ngo Dinh Diem, It Couldn/t Have Been the Cia”, trong Insight on the News, 15.3.1999.)] Sau khi Diệm chết, miền Nam Việt Nam lần lượt phải chịu đựng những chế độ cai trị mục nát, bất hảo và chưa lúc nào chống lại có hiệu quả ảnh hưởng cộng sản ở trong nước- điều này Kennedy đã được các cố vấn thân Diệm của ông cảnh báo trước. Trước khi Diệm bị sát hại, nước Mỹ chỉ chứng kiến khoảng 150 quân nhân ngã xuống trong khi làm nhiệm vụ; sau khi Diệm bị giết chết, trong mười năm tiếp theo, nước Mỹ sẽ chứng kiến 58.000 nam nữ qâun nhân Mỹ chết. Cho dù bằng một cách gián tiếp, ngay cả sau khi chết, Kennedy vẫn phải chịu trách nhiệm về số người đã hi sinh này. Kennedy phớt lờ các cố vấn tiền phương của mình để lắng nghe những Ông ba nịnh hót trong Bộ ngoại giao vì họ đã vẽ ra một bức tranh dễ dãi nhất để ông được tái đắc cử. Hãy để các tướng lĩnh nổi dậy lật đổ Diệm và Nhu, họ nói lý thuyết với Kennedy, và hãy để các tướng lĩnh nổi dậy giết chết Diệm và Nhu... rồi thì mọi lo lắng về cuộc tái tranh cử của ngài sẽ được giải quyết. Con đường dễ dãi đối sánh với con đường ngoại giao. Kennedy đã chọn con đường thứ nhất. Một chuyên gia khác về Việt Nam, William J.Rust,nó một cách súc tích trong cuốn sách có lẽ đã mô tả chi tiết hơn bất cứ cuốn sách nào về lệnh hành quyết Diệm. “ Mặc dù các quan chức Mỹ ở Washington và Sài Gòn đã biết trước cuộc đảo chính và mối nguy hiểm mà Diệm có thể gặp phải, nhưng không có cuộc sắp đặt nào đưa Diệm ra nước ngoài.” Và “... mười bảy giờ sau khi nổ ra cuộc đảo chính, vẫn không thấy nỗ lực nào bốc Diệm bay ra khỏi nuớc”.(56) [(Rust, William J. Kennedy in Vietnam( Da Capo Press, New York, 1985)] Bạn vẫn chưa tin chắc rằng Kennedy và chính phủ của ông ta sốt sắng thúc đẩy một cuộc đảo chính chống lại một nước đồng minh sao? Hãy xem xét các bức điện văn trao đổi xuyên đại dương giữa Nhà trắng và Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, và cùng với nó, hãy nhìn những Ông ba nịnh hót đứng sau John F. Kennedy. Sau đây là một bức điện của Ngoại trưởng Dean Rusk gửi Lodge, vào hồi 12 giờ 4 phút rtưa ngày 1.11.1963- một giờ trước khi cuộc đảo chính bắt đầu: “Nếu cuộc đảo chính thành công, dân chúng ở đây sẽ rất tán thành và hiểu rõ hơn về mục đích của cuộc đảo chính nếu các tướng lĩnh và quan chức dân sự tiếp tục phát huy mạnh mẽ và công khai một kết luận được thông báo trên đài phát thanh của họ, rằng Nhu đã mặc cả với những người Cộng sản để phản bội sự nghiệp chống cộng” (57) [(Frus, Vol IV.)] Trong bức điện này Rusk cho Lodge biết rằng cử tri Mỹ sẽ được xoa dịu nếu Lodge yêu cầu các tướng đảo chính công khai tuyên bố rằng Nhu là người cộng tác với cộng sản. Tiếp đó là lời phát biểu của Roger Hilsman, Trợ lý Ngoại giao Phụ trách các Vấn đề Viễn Đông: “Nếu Diệm vẫn ngoan cố không chịu truất quyền Nhu, chúng ta phải đối mặt với nguy cơ bản thân Diệm cũng không thể được bảo đoảm an toàn.” Hôm đó là ngày 24.8.1963, hai ngày sau khi Lodge nhận nhiệm vụ Đại sứ(58) [(Herring, The Pantagon Paper.)] Trong bức điện gửi cho Lodge này, Rusk cũng yêu cầu được trao đổi thông tin với các tướng chống đối, đó là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy chính quyền Kennedy tán đồng việc lật đổ một chính phủ đồng minh. Stanley Karnow nói một ẩn ý khá hay trong tiểu luận nổi tiếng của ông về chiến tranh Việt Nam: “Vì nó( bức điện tín) hàm ý, ít nhất là trên lý thuyết, rằng nước Mỹ( tức là Chíng phủ Kennedy) giành quyền thao túng một chính phủ phụ thuộc không tuân thủ các chuẩn mực của nó” (59). [(Karnow)] Ngày 29.8.1963, Lodge gửi bức điện sau đây cho Nhà trắng để xác định thái độ của chính phủ:” Chúng ta đã rơi vào một giải pháp không có đường thoái lui mà không mất mặt: lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm” (60) [(Frus, Vol IV.)] Hồ sơ lưu trữ quốc gia nói rất rõ ràng, hiển nhiên và xác định nước Mỹ, dưới quyền Tổng thống Kennedy, bị rơi vào chuyện gì – trù liệu một cuộc phá hoại ngầm và đi đến lật đổ tổng thống của một nước đồng minh mà Mỹ đã bỏ ra hàng tỉ đô la và hy sinh một trăm sinh mạng để ủng hộ.
Đến phút chót khi quả bóng đã lăn, ông sợ hậu quả nếu cuộc đảo chính thất bại( phần nào giống với sự dè dặt đã khiến ông nuốt lời vào phút chót không cho quân yểm trợ trong vụ xâm nhập Vịnh Con Heo, khiến bao nhiêu nỗ lực[ mà ông ta đã biết và chuẩn y ngay từ đầu] biến thành thảm hoạ và là nỗi phiền toái duy nhất của ông ta trước công chúng). Dù vậy, chẳng bao lâu sau sự phê chuẩn của ông ta đã trở nên rõ ràng, khi đích thân ông đánh điện cho Lodge và nói rằng: “Nhưng một cuộc đảo chính đặt dưới sự lãnh đ5o của những người có trách nhiệm bắt đầu... thì chính vì quyền lợi của nước Mỹ mà nó phải thành công” (61) [(Karnow.)] Trong cuốn phim tài liệu đặc sắc Việt Nam: Thiên sử Truyền hình, Lodge được phỏng vấn vài năm trước khi mất năm 1985, và ông đã phát biểu một cách cứng cỏi rằng “Tôi đã sống với cuộc đảo chính đó trong nhiều tuần (phải nói là nhiều tháng chứ, Henry) tuy nhiên tôi không thể nói là tôi ngạc nhiên... mà đúng là thú vị khi được chứng kiến cảnh người ta bắn lẫn nhau”. Chứng kiến cảnh người ta bắn nhau là một điều thú vị? Một người thông minh như Henry Cabot Lodge không thể im lặng hay sao mà lại phát biểu một câu lố bịch như vậy? Rồi còn nói “Tôi đã sống với cuộc đảo chính đó trong nhiều tuần...” Ở đây Lodge cố liều phản bác chuyện ông ta đã tiếp tay kích hoạt cuộc đảo chính. Sự ttực được tài liệu xác chứng là Lodge đã thúc đẩy cuộc lật đổ này không phải chi trong nhiều tuần mà trong nhiều tháng, thậm chí trước các cuộc họp ở Nhà trắng có ông tham dự, trước khi ông được phái tới Sài Gòn hồi tháng 8 năm 1963. Seymour Hersh, trong cuốn sách kỳ lạ The Dark Size of Camelot (“Mặt tối của Triều đình Camelot”), trích dẫn nhiều đoạn hồi ký chưa công bố của Lodge để lại sau khi chết, “Tôi được lệnh gửi các bức điện trực tiếp đến [Tổng thống Kennedy],(62) [(Hersh,)] thêm nhiều bằng chứng cho thấy Kennedy chỉ thị cho Lodge phá hỏng các kênh chính thống để sử dụng các kênh “cửa hậu” và thận trọng không để cho các sĩ quan chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam và những chính khách hoạt động tiền phương ph2n đối giải pháp của Kennedy biết kế hoạch ủng hộ cuộc đảo chính. Như đã nói trước đây, kế hoạch của JFK sẽ không thành nế Diệm và Nhu sống sót sau cuộc đảo chính- và họ đã chết- mặt khác kế hoạch cũng sẽ không thành nếu có một vài thành viên khác trong gia đình Diệm hoặc sống sót hoặc không bị vô hiệu hoá hoàn toàn. Bà Nhu nhiều tai tiếng (chúng ta sẽ biết thêm về con người này sau) đang đi du thuyết ở Mỹ lúc xảy ra đảo chính, đã tìm mọi cách – nhưng không được – nài nỉ Mỹ ủng hộ sự nghiệp của của Nam Việt Nam; bà an toàn đứng ngoài cuộc đảo chính và chắc hẳn không thể bị giết chết đột ngột (như nhiều nhân chứng vụ ám sát Kennedy chẳng hạn) bởi vì bà quá nổi bật lúc bấy giờ. Tuy nhiên, Lodge lo liệu các con của bà tránh được nguy hiểm; ông ta đưa họ ẩn trốn trên núi ngay trước cuộc đảo chính, sau đó thu xếp cho họ bay qua Rome. Riêng anh cả của Diệm, Tổng Giám mục Thục, được triệu hồi một cách dễ dàng về Vatican ngay sau khi JFK tiếp kiến giáo hoàng hồi tháng Sáu. Và còn có một người em khác cuỉa Diệm, Ngô Đình Cẩn, người được coi là “lãnh chúa” ở Miền Trung Việt Nam. Nhân vật này là một câu chuyện khác- ông ta tỏ ra rất có chính kiến và lớn tiếng nói về những toan tính của Mỹ can thiệp vào chính phủ độc lập của Diệm. Tuy vậy, trong thới gian xảy ra đảo chính, Cẩn nhận ra tình trạng gay go của mìng bên liên lạc với Lodge xin được tị nạn chính trị, vì biết rằng nếu bị bắt, phe của Minh Lớn sẽ giết ông. Lodge sẵn lòng đáp ứng hoặc có vẻ như vậy. Lodge chỉ cho Cẩn trốn trên một máy bay Mỹ, trong mộtkhoang dành cho người đưa thư ngoại giao, rồi sẽ được bốc bay đi an toàn rời khỏi nước tới Philippines. Nhưng ngay khi Cẩn trốn được lên máy bay thì chuyến bay chợt đổi hướng rồi được lệnh hạ xuống căn cứ không quân Tân Sơn Nhất nơi lính Mỹ của Minh Lớn đang đợi. Cẩn bị bắt ngay lập tức và về sau này bị một đội hành quyết bắn chết(63) [(Sheehan.)]. Lodge đã lừa đưa Cẩn vào nanh vuốt của chính quyền mới, và họ không có lựa chọn nào khác hơn là sát hại ông ta. Còn đây là một bằng chứng khác về bản chất khác hai mặt trâng tráo đến xấu hổ của Lodge. Sau cuộc đảo chính, ông đại sứ đáng kính đi rêu rao và quả quuyết với người Mỹ rằng nước Mỹ hoàn toàn trong sạch trước cuộc đảo chính Diệm và kết cục đẫm máu của nó. Ông viết trên tờ New York Times ngày 30.6.1964:” Cuộc lật đổ chế độ Diệm thuần tuý là chuyện nội bộ của người Việt Nam. Chúng ta chưa bao giờ tham dự vào việc bàn mưư tính kế. Chúng ta chưa bao giờ đưa ra một lời khuyên. Chúng ta không làm bất cứ điều gì liên quan đến nó” (64) [(Karnow)]. Nhưng mà hãy xem dòng chữ sau trong bức điện tính Lodge gửi cho Nhà trắng chỉ năm ngày sau khi Diệm và Nhu bị giết: “... mảnh đất nơi hạt giống đảo chính đang lớn mạnh là do chúng ta vun xới và cuộc đảo chính sẽ không thể xảy ra nếu không có sự chuẩn bị của chúng ta” (65) [(Frus, Vol IV.)]. Tất cả đều xuất phát từ chính một người mà sau này sẽ khẳng định với người Mỹ rằng chính phủ Mỹ không làm bất cứ điều gì liên quan đến nó”. Có nhân nhượng lắm thì cũng phải gọi đây là một lời dối trá khủng khiếp. Bây giờ, chỉ để sáng rõ hơn, chúng ta hãy nhìn lướt những diễn tiến ở Việt Nam sau khi cuộc đảo chính do Mỹ nuôi dưỡng diễn ra, vì theo như đánh giá của Kennedy và Bộ ngoại giao của ông ta thì cuộc xâm lăng của cộng sản sẽ không thể ngăn chặn được nếu còn chính quyền Diệm. Diệm cầm quyền trong chín năm, còn người kế nhiệm ông ta, Minh Lớn, sẽ chỉ tại vị được hai tháng trước khi chính ông ta bị phe quân đội của ông lật đổ. Sau đó, trong mười một mămtiếp theo, cuộc xung đột Việt Nam leo thang thành một cuộc chiến tranh toàn diện sẽ cướp đi sinh mạng 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Vệt Nam ở cả hai miền- cuộc chiến tranh duy nhất mà người Mỹ sẽ thất bại và là một trong những vết nhục đen tối nhất trong lịch sử của nước Mỹ. Chức vụ tổng thống Nam Việt Nam sẽ trở thành miếng mồi béo bở: các ông tướng thối nát lần luợt lên ngôi sau những trang giành đấu đá lẫn nhau nhằm chiếm cho được chiếc ghế cao trọng nhất trong Dinh Tổng thống và tận hưởng giàu sang. Nói cách khác, phải thừa nhận rằng những người kế vị Diệm sẽ không bao giờ giữ được phòng tuyến chống chủ nghĩa cộng sản như Diệm đã làm. Cái chết của Diệm là tiền đề dẫn tới cái chết ở miền Nam Việt Nam. Thời gian cho thấy những người phản bội như Tướng Paul Harkins. Giám đốc CIA McCone, và cựu Đại sứ Nolting đã có lý. Có thể Diệm không phải là nhà lãnh đạo tốt nhưng chắn chắn là tốt hơn bất cứ kẻ nào thay thế – như một thập kỷ đẫm máu, chết chóc, và kinh hoàng sau đó sẽ chứng minh – và mặc dù cách đối xử của Diệm với người Phật giáo là hoàn toàn không chấp nhận được, thì thêm nhiều sức ép ngoại giao nữa chắc chắn sẽ buột đượv Diệm và Nhu chấm dứt những cuộc tấn công đàn áp. Xét cho cùng, điều ưu tiên hàng đầu ở Nam Việt Nam là cố gắng tránh khỏi chế độ cộng sản, và Diệm đã làm được điều này. Vì vậy, “giải pháp” của Kennedy thực sự đã giúp huỷ hoại mục đích ban đầu đó. Diệm bị giết bởi vì sự đàn áp số đông người Phật giáo của ông đe doạ những hy vọng tái tranh cử của JFK, nhưng điều đáng lưu ý là sau cái chết của Diệm, việc đàn áp Phật giáo vẫn không dừng lại; trong thực tế vẫn có thêm nhiều sư sãi tự thiêu để phản đối chính quyền sau khi Diệm bị tống tiễn (66) [(Bouscaren, Anthony T., The Last of the Mandarins: Diem of Vietnam( Duquensne University Press, Pittbiurgh, 1965)]. Sự đồng loã trực tiếp của Mỹ trong cuộc đảo chính Diệm không thể phủ nhận được, và bằng cách phớt lờ những đề xuất cụ thể của đội ngũ cố vấn và CIA, Kennedy dựng lên một nhóm trợ thủ đặc biệt, họ sẽ bí mật thực hiện quyết tâm của ông là lật đổ đồng minh. Và tòan bộ tâm trạng của JFK, vì rằng Diệm và Nhu đã chết, có thể tìm thấy trong dòng cuối cùng của bức điện ông ta trực tiếp gửi đến Lodge ngày 6.11.1963. Tôi khẳng định sự đánh giá cao đối với một công việc được hoàn thành tốt đẹp, John F. Kennedy(67) [(Frus, Vol. IV.0)].
NHỮNG MÂU THUẪN
“Chính phủ [Mỹ] đã sát hại Diệm”- RICHARD M. NIXON (68) [(“Tapes Reveal Nixon Blaming JFK in Killing” The Times – Picayune, 26.2.1999)].
Tới đây, chúng ta sẽ dừng lại một chút và xem xét vài sự kiện có vẻ khó tin liên quan đến những tài liệu mà tới giờ chúng ta đã tán thành đưa ra: 1) Thoạt tiên Kennedy không biết chắc cuộc đảo chính có phải là ý tưởng tốt hay không: Minh Lớn và những kẻ âm mưu đã hoãn cuộc đảo chính vài lần, khi những thông điệp mật mà Coein nhận được từ Nhà trắng cho thấy nỗi nghi ngại về khả năng thành công. Nếu cuộc đảo chính thất bại, JFK và các quan chức Bộ Ngoại giao sẽ gặp nhiều rắc rối; bởi vậy, sự dao động lúc đầu không chỉ diễn ra trong tâm trí Kennedy mà còn trong những bức điện tín trao đổi giữa Washington và Sài Gòn. Cũng thái độ chập chờn và thiếu quyết đoán này đã gây nhiều khó khăn cho JFK trong vụ xâm nhập Cuba, và bây giờ, chúng ta lại chứng kiến một cái gì tương tự. Mới phút trứơc Kennedy còn sôi nổi với cuộc đảo chính, thì phút sau ông đã nguội lạnh. Những độc giả tò mò khi đọc kỹ nội dung các bức điện của Bộ Ngoại giao trong Foreign Relation of the United States, 1961-63, Tập IV chắc hẳn sẽ tìm thấy nhiều đoạn văn, nhất là trong các bức điện Nhà trắng gửi cho Lodge, cho thấy sự bất an về cuộc lật đổ Diệm sắp xảy ra, cộng với những ý kiến nói rằng Lodge nên ép các tướng nổi dậy trì hoãn cuộc đảo chính. Đây hoàn toàn là sự thật và không thể phủ nhận. Nhưng thời điểm cuối cùng là một chuyện hoàn toàn khác. Dấu tay Kennedy, do dự hay quả quyết, đã để lại trên toàn bộ cuộc đảo chính. Nói rằng JFK vô can là khônh thể được, và cũng là vô lý về mặt chính trị. Làm thế nào mà cả Lodge, Rusk lẫn Harriman, Hilsman tự ý sắp đặt việc lật đổ Diệm và tìm mọi cách giữ kín không cho Kennedy biết ngay cả khi Kennedy được Harkins, Nolting, Richardson, Giám đốc CIA McCone và nhiều người khác thường xuyên đưa ra lời khuyên chống lại cuộc đảo chính? Không thể được. Với kết cục Diệm và em trai nằm chết trong chiếc xe bọc thép M 113 của Mỹ, Kennedy và Bộ Ngoại giao của ông đã hài lòng với kết quả đó. Nếu Kennedy không hài lòng, thử hỏi làm sao ông gửi điện tín cho Lodge hôm 6…11.1963, viết: “Tôi khẳng định sự đánh giá cao đối với một công việc được hoàn tất tốt đẹp.”? 2) Bạn có chắc là Richardson, Giám đốc Phân bộ CIA ở Sài Gòn, phản đối cuộc đảo chính Diệm? Vâng, quả đúng vậy. Richardson lúc nào cũng ủng hộ Diệm hết lòng với một lý do như tướng Harkins và Đại sứ Nolting: Diệm không giỏi, nhưng ông ta vẫn là người tốt nhất khả dĩ đương đầu với việt cộng, và chính vì mục đích đó mà người Mỹ ủng hộ Diệm. Khủng hoảng Phật giáo có thể chữa chạy kịp thời bằng sự giải hoà đích thực và sức ép ngoại giao. Tuy nhiên, sự thực là có một bức điện tín được biết đến nhiều nhất trong cái tên gọi là Pentagon Papers (“Hồ sơ Lầu Năm Góc”) (một tập tài liệu về chính sách ngoại giao của Mỹ liên quan đến chiến tranh Việt Nam rất thú vị và rất được dư luận chú ý) được Richardson chuyển đi ngày 28.8.1963. Và đây là những đoạn trích quan trọng nhất: “Tình hình ở đây đã đến mức không thể lùi được nữa ... Cuộc họp giữa Coein và Tướng Khiêm (một trong những chiến hữu của Minh Lớn) cho thấy đa số áp đảo trong hàng ngũ các tướng lĩnh ... đã thống nhất ... Chúng tôi hiểu nỗ lực này [đảo chính] phải thành công và về phần mình, chúng ta buộc phải làm bất cứ điều gì cần thiết”. Đủ rồi. Tới đây chúng ta có nhân vật chủ chốt của CIA ở Sài Gòn hoàn toàn đứng đằng sau cuộc đảo chính chống Diệm, mặc dù trước đó vài tháng ông ta phản đối. (Richardson quan hệ rất tốt với Diệm và Nhu). Điều này có thể do vài nguyên nhân. Có lẽ theo thời gian Richardson đã thật lòng thay đổi ý kiến. Hoặc có thể Richardson đang hiệu chỉnh những bức điện tín của mình vì giờ đây ông biết rằng cuộc đảo chính là không thể tránh được. Hay có lẽ Richardson chỉ đơn giản quyết định tuân theo kế hoạch của Kennedy để khỏi bị sa thải (sau khi Đại sứ Nolting bị cách chức, Richardson biết sắp sửa đến lượt ông), nhưng ý định này thất bại bởi lẽ Richardson bị triệu hồi vào tháng Mười. Tuy vậy, điều đó không quan trọng phải không? Richardson là một giám đốc tiền phương giỏi, có thành tích tốt trong “ngành”, và ông ta bị lôi kéo về vì cùng quan điểm với Nolting và Harkins. Nhưng tính chất quan trọng thực sự của bức điện này thì quá rõ: có thêm bằng chứng cho thấy Coein, một điệp viên của chính quyền Mỹ, đang bí mật tiếp xúc với các tướng mưu loạn – có thêm chứng cớ về sự dính líu của Mỹ vào cuộc lật đổ một nguyên thủ quốc gia đồng minh. 3) Không phải mọi người đều biết rằng điệp viên CIA E. Howard Hunt thực sự đã nguỵ tạo một số tài liệu của Bộ ngoại giao để cho thấy Kennedy vướng vào cuộc thảm sát Diệm? Vâng. Trong Plausible Denial (“Lời phủ nhận đáng tin”), tác giả / luật sư Mark Lane có dịp chất vấn Hunt trong một phiên toà về tội phỉ báng. Nhiệm vụ của Lane là vạch trần sự dối trá của Hunt trước bồi thẩm đoàn, và ông đã làm việc này với phương pháp tinh thông bằng cách buộc Hunt thú nhận một loạt lời dối trá và lừa lọc. Nhưng trong thời gian chất vấn, Lane còn rất khéo léo làm cho Hunt thừa nhận đã giả mạo một số bức điện của Bộ ngoại giao khiến người đọc tin rằng Kennedy ra lệnh ám sát Diệm. Hunt làmviệc này với sự thông đồng của phụ tá Chính phủ Nixon là Charles Colson. Hunt ngụy tạo những bức điện này bằng máy đánh chữ của ông cho có vẻ đáng tin, rồi tìm cách công bố như thật trên báo Times và Life(69) [(Lane, Mark, Plausible Denial (Thunder’s Mouth Press, 1991))]. Quá khứ mờ ám của Hunt không có gì bí mật (ông ta từng tiếp tay tổ chức một vụ đột nhập Watergate đầy tai tiếng), và cũng không còn lạ gì sự thù hằn của ông đối với John Kennedy (Hunt hoàn toàn đổ lỗi cho Kennedy về thất bại trong vụ Vịnh Con Heo, và càng coi thường Kennedy hơn nữa trước việc ông giảm bớt quyền hành của CIA tại Việt Nam) / Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là những bức điện do Hunt ngụy tạo không phải là những bức điện của chính phủ mà chúng ta trích dẫn trong cuốn sách này. Hunt không ngụy tạo ra tập IV Foreign Relations of the United States, 1961 –1963, gồm 793 trang hồ sơ về sách lược ngoại giao của chính phủ trong khoảng từ tháng Tám đến tháng Mười hai,1963: ông ta ngụy tạo nhiều tài liệu đối ngoại và tìm cách làm cho người ta tưởng thật. Nói cách khác, sự giả mạo của Hunt không nằm trong tập IV Foreign Relation United States, 1961 –1963, cũng không có mặt trong bất cứ hồ sơ lưu chính thức nào. McCoy đã nói hết bằng sự thực. Những ai còn nghi ngờ sự đồng lõa của Kennedy trong cuộc lật đổ Diệm chỉ cần đọc lại hồ sơ chính phủ chứa đựng hàng trăm trang điện văn trao đổi qua lại, sẽ thấy rõ Kennedy và các thành viên chính phủ đã khuyến khích, vận động, và xúi giục Minh Lớn cùng các tướng lĩnh của ông ta truất phế Diệm và Nhu, một động thái dứt khoát dẫn đến cái chết của hai người này đồng thời nhanh chóng giúp Kennedy thoát khỏi búa rìu dư luận quốc tế. 4) Phải chăng có những mâu thuẫn trong một số cuốn sách lịch sử viết về cái chết của Diệm và Nhu, đặc biệt là sự từ chối trưng dụng một chiếc máy bay đưa anh em họ Ngô đi tị nạn chính trị của Coein? Có và có, nhưng kết cục vẫn vậy. Những chi tiết tỉ mỉ về vụ ám sát Diệm và Nhu bị giấu kín một cách khéo léo. Tuy vậy, không có gì để bàn cãi nữa, chính Minh Lớn đã ra lệnh giết họ. Chỉ có thể tranh luận là Minh Lớn có tự ý ra lệnh hay không hoặc ông ta có bị buộc phải làm thế hay không sau khi Coein nói khó có thể cấp một máy bay trong vòng hai muơi bốn tiếng đồng hồ. Một số cuốn sách lịch sử đặc sắc đã nê những chi tiết khác nhau đôi chút liên quan đến vụ thảm sát thực sự đã xảy ra. Chúng ta hãy lướt qua hai trong số những cuốn sách hay nhất cho tới bây giờ viết về Chiến tranh Vịêt Nam: A Bright Shining Lie (Lời nói dối toả sáng) của Neil Sheehan và Vietnam: A History (“Việt Nam: Một thiên sử”) của Stanley Karnow, cả hai đều là những câu chuyện kể khai thác rốt ráo các tài liệu và có độ dài như Kinh Thánh. Trong sách của Sheehan, tác giả quả quyết rằng Minh Lớn ra lệnh cho một thiếu tá giết hai anh em họ Ngô. Viên thiếu tá bắn họ bằng súng lục bên trong chiếc xe bọc thép, sau đó vài người lính cuồng điên dùng lưỡi lê đâm nhiều nhát lên xác của Nhu(70) [(Sheehan)]. Sách của Karnow kể cặn kẽ hơn, một thiếu tá thiết giáp (Nghĩa) và một vệ sĩ chuyên nghề giết mướn của Minh (Nhung) được phái đi bắt Diệm và Nhu theo lệnh của tướng Xuân, người có mối bất mãn cá nhân với Diệm vì bị đối xử phân biệt trong công việc. Nhưng ngoài ra, Minh Lớn còn ra lệnh cho Nhung giết Diệm và em ông ta. Theo lời kể của Karnow, Nghĩa bắn hai người đàn ông bằng súng tự động đặt trên tháp pháo (có sự nhầm lẫn, bởi vì xe bọc thép M113 không có tháp pháo; nó chỉ có một ổ súng trên đó thường gắn khẩu súng máy M2.50, là loại vũ khí chủ lực; lời tường thuật của Karnow dường như muốn ám chỉ rằng thoạt đầu Diệm và Nhu bị bắn khi vẫn còn ở bên ngoài xe, đều này là không thể được vì sự hiện diện của nhiều nhân chứng và sự hỗn độn sau đó, còn Nhung bắn bằng loại súng gì không rõ và sau đó lấy dao găm đâm tới tấp vào hai cái xác (71) [(Karnow)]. Tuy nhiên những chi tiết dù khủng khiếp mấy cũng không quan trọng. Vấn đề là Diệm và Nhu, tin rằng mình sẽ được an toàn rời khỏi đất nước, đã bị hành hình một cách dã man. Mặc dù vậy, dường như có sự không thống nhất liên quan đến Coein và chiếc máy bay. Karnow thuật lại rất rõ ràng rằng Coein tuyên bố tuyệt đối không thể cấp một chiếc máy bay cho Diệm và Nhu rời khỏi nước(72) [(Karnow)], một lời tuyên bố man trá bởi vì thật ra nhiều máy bay Mỹ đang nằm ở sân bay, mà một trong số đó, thông qua Lodge, đã được cấp không chút rắc rối cho Cẩn, em của Diệm, và như chúng ta biết đó đúng là chiếc máy bay cuối cùng Cẩn sẽ được ngồi lên. Đây nữa, Seymour Hersh trong Dark Size of Camelot cũng dẫn ra nhiều chi tiết tương tự, rằng Coein, vào năm 1975, khai rõ Minh có yêu cầu ông cấp một máy bay để bốc Diệm trốn đi nhưng Coein từ chối lời yêu cầu viện cớ không thể trưng dụng. Rồi Hersh kết luận một cách mạnh mẽ ...” vì Coein biết Diệm đang ở trong tay một đám quân nhân mà họ sẽ giết ông ta. Trong bất kỳ tình huống nào, một chiếc máy bay thích hợp có thể dễ dàng được cấp trước nhưng rồi không có. Jack Kennedy đã gạch tên Diệm, và mọi người ở Sài Gòn đều biết như thế”(73) [(Hersh)]. Tuy nhiên, có một điều còn thú vị hơn nữa tìm thấy trong chính cuốn sách điều tra tỉ mỉ này, là Coein, trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1996, đã phát biểu rằng không hề mảy may nghi ngờ về chuyện Minh Lớn lập kế hoạch giết Diệm và Nhu, nên ông (Coein) đã lập tức báo lại ngay cho Lodge biết thông tin này(74) [(Hersh)], và Lodge trực tiếp báo với Kennedy. Coein nói láo? Dù gì đi nữa thì ông ta cũng dính líu quá nhiều vào âm mưu được Mỹ hậu thuẫn này như ông ta đã từng thú nhận khi trả lời phỏng vấn trong Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình rằng ông đã “bật đèn xanh” của Mỹ cho những kẻ chủ mưu nổi dậy đảo chính. Nhưng một lần nữa, đoạn kết này hầu như không có gì đáng để ý. Đây chỉ là một dẫn chứng mạnh mẽ hơn cho thấy Kennedy muốn Diệm và Nhu biến khỏi chính trường, và ông ta sử dụng những thành viên nội các ba phải và tin cậy nhất để ủng hộ mưu đồ đó của Minh Lớn nhằm đạt kết quả này. Không cần phải quan tâm đến sự bất nhất trong lới khai và trả lời phỏng vấn của Coein, trong mọi trường hợp ông ta luôn cho thấy mình là quân cờ mạnh có thể thực hiện ý muốn loại bỏ Diệm và Nhu của chính phủ Kennedy.
( Còn tiếp)
Vụ ám sát Ngô Đình Diệm và J.F.Kennedy ( 1,2,3,4,5,6,7,8,9) |
|
|
|
Cho đến bây giờ những bí mật xung quanh vụ ám sát Tổng thống Mỹ vẫn chưa có lời giải đáp, liệu có vấn đề gì xoay quanh vụ này?
Trả lờiXóaNhững bí mật xung quanh vụ ám sát Tổng thống Mỹ sẽ đi vào dĩ vãng
Trả lờiXóa