10 thg 9, 2013

Vụ ám sát Ngô Đình Diệm và J.F.Kennedy (7)


Ý tưởng này nảy sinh khi đồng tác giả Brad O’Leary của sách này thuyết phục Associated Television sang Nga để quay một phim tài liệu dựa trên những hồ sơ KGB mới tìm được có liên quan đến Oswald và vụ ám sát Kennedy. Bộ phim này đã phát sóng nhiều lần trong chương trình The Learning Channel. Trong những cuộc phỏng vấn rốt ráo với nhiều cấp thẩm quyền kỹ thuật hàng đầu của Nga (cũng như các cấp chỉ huy của KGB trước đây), trung tá Nikolai Martinnikov, một chuyên gia đạn đạo hàng đầu làm việc ở Phòng thí nghiệm tội phạm liên bang Nga, đề xuất kỹ thuật hiện đại sử dụng tia laser thử nghiệm – chính xác như một phương cách để khảo sát “các giả thuyết về viên đạn trúng đầu” khác nhau để xác định chính xác nơi nào tại quảng trường Dealey là nơi bắn ra phát đạn gây tử vong ấy. Điều này dẫn tới tiểu mục kế tiếp của chúng tôi:
  Tái Dựng Hiện Trường Quảng Trường Dealey
  Ba mươi lăm năm sau cái chết của Kennedy, quảng trường Dealey được phong toả cho một cuộc nghiên cứu chưa từng có, và những chuyên gia uy tín được mời tham gia, những con người với khả năng chuyên môn không thể phủ nhận:
  Anthony Larry Paul: một chuyên gia đạn đạo hiện trường với hơn 30 năm kinh nghiệm trong việc dựng lại hiện trường tội phạm; một giảng viên đạn đạo học cho FBI và sở cảnh sát của Los Angeles và Philadelphia.
  Heinz Thummed: một chuyên gia về laser ứng dụng và một nhà tiền phong về vận hành laser; Thummed là nhà khoa học đầu tiên nghĩ ra cách nhìn bằng laser cho ngành chế tạo vũ khí trên ba thập niên qua.
  Ronald L. Singer: Nhà tội phạm học hàng đầu của Phòng thí nghiệm tội phạm học Hat Tarrant.
  Bác sĩ Vincent DiMaio: nhà bệnh lý học pháp y nổi danh toàn quốc với nhiều sách giáo khoa và bài viết kỹ thuật đã định ra một số tiêu chuẩn trong lĩnh vực này. DiMaro là trưởng ban khám nghiệm y học ở San Antonio, Texas.
  Robert Groden: có lẽ là nhà nghiên cứu JFK nổi tiếng nhất. Groden đã viết một số sách bán rất chạy và nhờ kỹ năng của một chuyên viên nhiếp ảnh, có lẽ ông đã cho độc giả thấy được rất nhiều điều gây tranh luận chung quanh vụ ám sát JFK.
  Paul định nghĩa các mục đích căn bản, những thiết kế và động cơ tối hậu của việc tái dựng hiện trường này bằng cách giải thích, “chúng ta sẽ tái tạo lại kịch bản cảnh nổ súng – càng nhiều kịch bản càng tốt – bằng cách dùng công nghệ laser để xác lập các đường bắn của đạn”. Singer tăng thêm mối quan tâm đặc biệt của nhóm vào việc trắc nghiệm “một số giả thuyết khác, một số vị trí khác, và xem đích xác những gì chúng ta có thể loại bỏ – và tôi nghĩ đây thực sự là con đường các bạn phải đi – với bất kỳ nghiên cứu nào thuộc loại này – bạn loại bỏ những giả thuyết bấp bênh bên lề và càng loại bỏ được nhiều giả thuyết thì ta càng tới gần sự thật. Giống như Sherlock Holmes nói, một khi bạn loại trừ được tất cả những điều không thể xảy ra, thì cái còn lại chính là sự thực”. Với việc sử dụng mắt nhìn laser, dự án này sẽ có thể xác định giả thuyết nào trình bày rõ nhất chuyện đã xảy ra vào ngày 22.11.1963. Sau cùng, DiMaio tổng kết các mục tiêu của nhóm là “trình bày bằng chứng khách quan trong vụ này là gì, loại bỏ một số huyền thoại về bản chất của các vết đạn trên người Kennedy và các vũ khí, rồi để cho mọi người tự phán xét. Tôi chỉ quan tâm khía cạnh khoa học”. Ngay lập tức, các nhà khảo sát chuyên nghiệp được mang tới hiện trường để trắc nghiệm phương tiện, một công việc cực kỳ quan trọng. Ba vị trí trắc nghiệm được xác định để đánh dấu sự di chuyển của JFK dọc theo phố Elm, một trước lúc Tổng thống bị bắn, điểm thứ nhì đánh dấu phát đạn thứ nhất, và điểm thứ ba ở nơi trúng đạn vào đầu. Điều tối quan trọng là những vị trí trắc nghiệm ấy được chọn một cách độc lập, không dựa vào báo cáo Warren, nên nhóm thí nghiệm này đi thẳng tới tận nguồn: đoạn phim Zapruder. Dùng một máy phóng ảnh cho từng khung hình, từ vị trí chính xác nơi Abraham Zapruder đã đứng khi quay đoạn phim đó, nhóm này có thể đánh dấu chính xác từng bối cảnh quay. (Và sau đó, nhóm này so sánh những hình dạng sắp đặt của họ với những sắp đặt của Uỷ ban Warren – chúng giống nhau)
  Nhưng ngay chính chiếc xe cũng có những đòi hỏi về độ chính xác, nên một chiếc xe thử nghiệm được đem tới, không chỉ tương tự mà là y hệt như chiếc Lincoln mui trần chở JFK trong ngày định mệnh ấy, cùng với những đặc điểm về trục thứ cấp, dàn treo và các bánh xe.
  Điều tối quan trọng là chiếc xe vận hành theo đúng kiểu của chiếc xe chở Kennedy hôm đó.
  Kế tiếp, những hình nộm chính xác được dùng để thay cho Kennedy và Thống đốc Connally, những bộ khung đắt tiền có thể được dựng vào đúng vị trí tư thế của Kennedy và Connally trên xe khi bị bắn. Những vấn đề khác cũng được xem xét tỉ mỉ: những nhánh cây nay đã ngăn đường đạn bắn từ một số cửa sổ nào đó, việc tu sửa mặt đường và ngay cả tổng trọng lượng của sáu người có mặt trên xe hôm đó. Và sau khi tất cả những điều kiện này được thoả mãn, cảnh được diễn lại trên con đường – đó là phố Elm tại Dallas, Texas.
  Các mắt nhìn laser đã bố trí vào chỗ, chiếc xe trắc nghiệm được đặt đúng vị trí, nhóm khởi sự làm việc, và từ sáng đến tối những việc đo đạc, tính toán và những phát bắn trắc nghiệm bằng laser đã lần lượt được tiến hành.
  Rồi đến những kết quả đầy ngạc nhiên
  Nhiều giả thuyết đã mau chóng bị loại bỏ. Một số nhà nghiên cứu từ lâu đã nghi rằng phát đạn trúng đầu có thể đã được bắn ra từ điểm tiếp giáp nơi hàng rào của Grassy Knoll gặp chân đế bê tông của chiếc cầu vượt, nằm xa phía trước chiếc xe chở JFK. Một cách lý tưởng, vị trí này sẽ là một chỗ ngắm bắn rất tốt cho một tay bắn tỉa… nhưng đường bắn lại không thẳng. Một phát đạn bắn từ đó không chỉ làm vỡ tung kính chắn gió của chiếc xe, mà nó cũng không thể bắn trúng đầu JFK theo một kiểu phù hợp với vết thương mà ta thấy trong đoạn phim Zapruder. Do đó, giả thuyết về đường bắn này bị loại bỏ.
  Một giả thuyết khác cũng bị loại bỏ là giả thuyết cho rằng phát đạn vào đầu được bắn từ một máng xối ở phía trước chiếc xe. (Theo năm tháng giả thuyết này mất đi sức thuyết phục cho đến khi một tập trong bộ phim The X-Files được chiều gần đây miêu tả lại giả thuyết này). Nhưng một lần nữa, các kết luận khoa học của nhóm lại cho rằng phát đạn trúng đầu xuất phát từ vị trí đó là không thể có được.
  Thứ ba (và có lẽ gây thất vọng cho nhiều người say mê tìm hiểu vụ JFK), các thành viên trong nhóm nhất trí loại bỏ giả thuyết nổi tiếng nhất trong các giả thuyết – Giả thuyết Grassy Knoll, vốn được trình bày xuất sắc trong phim của Oliver Stone. Nhưng giả thuyết này dễ dàng bị loại bỏ vì nó không ở vị trí xác lập được những đường bắn cần thiết giải thích được không những các vết thương của Kennedy mà cả những vết thương của Connally nữa. Có thể rằng đã có tay bắn tỉa nấp sau hàng rào Knoll… nhưng những kết quả trắc nghiệm của nhóm chứng tỏ rõ ràng rằng không phát đạn nào từ vị trí đó trúng được Tổng thống.
  Vậy thì phát đạn chết người ấy đến từ đâu?
  Sự thực, điều mà nhóm trắc nghiệm xác định ban đầu là tất cả mọi phát đạn bắn trúng Kennedy và Connally đều xuất phát từ phía sau chiếc xe. Một số trục laser từ phía sau được thiết lập, và vị trí bắn tốt nhất được tìm thấy là cửa sổ ngoài bìa tầng thứ sáu của kho sách giáo khoa, điều đó không làm gì ngoài việc chứng thực những kết luận của Uỷ ban Warren, ngoại trừ…
  Vị trí bắn tốt thứ nhì cũng được xác lập. Tầng hai của cao ốc Dal-Tex.
  Trong tổng kết phân tích cuộc nghiên cứu toàn diện này, Ronald Singer kết luận, “Điều thứ nhất tôi muốn nói là tôi rất hài lòng với những gì chúng tôi đã làm được. Tôi thực sự biết được nhiều hơn tôi mong đợi…Tôi nghĩ điều tốt nhất mà chúng tôi đã làm dựa trên những đường đạn thiết lập bằng laser từ khu Grassy Knoll cũng như từ cầu vượt, tôi nghĩ chúng tôi đã cho thấy rõ ràng rằng với bằng chứng khoa học chắc chắn, thì không thể có một phát đạn trúng đầu Tổng thống Kennedy từ những nơi đó”. Và tuy hầu hết những kết quả trắc nghiệm cho thấy rằng tất cả những phát đạn trúng được vào người JFK cũng như Connally có lẽ đều xuất phát từ kho sách giáo khoa, nhưng giả thuyết cao ốc Dal-Tex cũng không thể bị loại bỏ. Groden đã nói rõ nhất về tầm quan trọng của sự đáng tin dựa trên khoa học này: “Một trong những điều có ý nghĩa nhất mà chúng ta lấy được từ cuộc trắc nghiệm này là việc tìm ra rằng có một khẳng định bổ sung cho một điểm bắn tình nghi mà nó đã bị nghi ngờ từ hơn 30 năm qua, và đó là vị trí trên tầng hai của cao ốc Dal-Tex”.
  Tóm lại, điều này rõ ràng gợi ý tới bằng chứng là có ít nhất hai tay bắn tỉa.
  Sau đó, các kết luận của nhóm được trình bày cho chính nhân vật đã ban đầu đề nghị trắc nghiệm bằng tia laser, chuyên gia đạn đạo của Nga, Trung tá Nikolai Martinnikov thuộc cảnh sát liên bang Nga và ý kiến của ông ta một lần nữa khẳng định những phát hiện của nhóm đạn đạo học Mỹ. “Tôi muốn các bạn chú ý tới sự kiện rằng, dựa trên nghiên cứu này, điều có thể nói chắc chắn đó là các phát đạn đều xuất phát từ phía sau”, Martinnikov kết luận. Và ông ta cũng đồng ý rằng Cao ốc Dal-Tex là một vị trí “không thể loại bỏ ra khỏi cuộc nghiên cứu”. Và bây giờ chúng ta biết rằng những vị trí bắn khả thi từ phía sau là tầng sáu của kho sách giáo khoa và tầng hai của Cao ốc Dal-Tex(277) [(Mọi thông tin và tài liệu phỏng vấn liên quan đến việc dàn dựng lại Quảng trường Dealey lấy từ phim tài liệu video The Secret KGB/JFK Assassination Files (Associated Television, 1998)].
  Lại thêm một khẳng định khoa học nữa cho rằng không có chuyện một tay súng đơn lẻ đã giết John F.Kennedy, mà phải là một âm mưu toa rập nhiều người.
 NHỮNG QUAN HỆ QUÁ TẦM
“…hắn ta được Antoine Guerini tiếp cận vàđề nigh “hợp đồng” giết Tổng thống Kennedy…”- HỒ SƠ 62-109060-8260 của FBI(278) [(Tài liệu FBI, số lưu trữ 124-10001-10395; Loạt hồ sơ: HQ; Hồ sơ CIA số 62-109060-8260, đề ngày 19.2.1988)]

  Giữa thập niên 1980, nhà báo Steve Rivele tìm ra một mẫu thông tin suýt nữa phá sụp các bức tường quanh giả thuyết về vụ ám sát JFK. Một số độc giả có thể đã nghe chuyện này nhưng với ai chưa biết, chúng tôi muốn kể lại ở đây và thêm vào đó một vài lý giải.
  Trong quá trình nghiên cứu của mình, không rõ làm cách nào Rivele tìm ra một tay anh chị Marseille bị tù tên là Christan David. David là một tay buôn lậu bạch phiến làm việc cho Antoine Guerini, ông trùm bạch phiến Marseille. Theo Rivele, David đã dần dần tiết lộ điều mà y coi là hiểu biết của y về vụ ám sát Kennedy, để trả ơn Rivele đã tìm cho y một luật sư nhằm giữ cho y không bị trục xuất về Pháp, nơi y bị truy nã vì tội giết người.
  David kể chi tiết một câu chuyện ly kỳ, dính đến các tay ám sát chuyên nghiệp, Mafia Mỹ và dân giang hồ Marseille, những mối liên hệ mà chúng tôi rất ủng hộ. Với Rivele, David kể rằng Antoine Guerini đã tới gặp y, vào tháng Năm hay Sáu gì đó năm 1963, và yêu cầu y nhận thực hiện hợp đồng ám sát Tổng thống Kennedy – đặc biệt, David còn được yêu cầu kết hợp với một “nhóm bắn thuê chuyên nghiệp” để làm vụ này. Nhưng David bảo với Rivele là y đã từ chối bởi vì vụ này rủi ro cao quá; việc giết Kennedy trên đất Mỹ đặt ra quá nhiều vấn đề tổ chức và thực hiện phải giải quyết cho dù có được chút lạc quan. Nên đã có người khác nhận đề nigh này của Guerini – chính xác là ai thì không rõ – nhưng David, trong những năm sau đó, có nghe ngóng được chút chi tiết, vì những bạn bè của y biết những thành viên của nhóm “bắn thuê” sau cùng đã được phái đi để giết Kennedy.
  David khẳng định có bốn phát đạn đã được bắn vào JFK. Hai phát bắn từ phía sau (một trúng lưng Kennedy, một trúng Thống đốc Conally. Phát thứ ba được bắn từ phía trước xe – vị trí của Grassy Knoll – gây vết thương chí mạng trên đầu JFK, trong khi phát thứ tư bắn từ phía sau và hụt). David còn nói rằng người bắn từ Grassy Knoll là dân thế giới ngầm Marseille tên là Lucien Sarti, kẻ thường xuyên ăn mặc giả quân đội và cảnh sát địa phương khi thực hiện hợp đồng sát nhân. Ban đầu, chuyện này cực kỳ hấp dẫn vì nó có vẻ hậu thuẫn cho giả thuyết rất phổ biến của Oliver Stone vốn cho rằng phát đạn vào đầu là do một ai đó mặc đồng phục cảnh sát Dallas(279) [(Stone, Oliver, JFK, phần II cảnh xử án; Turner, Nigel, The Men Who Kill Kennedy (ghi chú: Mô tả tốt nhất cho giả thuyết của Rivele dựa trên những lần ông ta phỏng vấn Christian David là cuộc phỏng vấn chính Rivele, có trong chương “The Force of Darkness” trong The Men Who Kill Kennedy. Ngoài ra, một bản tóm lược có thể thấy trong Who’s Who in the JFK Assassination của Michael Benson (tr 100-101; 313 và 381); bản tóm lược của chính quyền nằm trong Tài liệu FBI, số lưu trữ 124-10001-10395; Loạt hồ sơ: HQ; Hồ sơ CIA số 62-109060-8260, đề ngày 19.2.1988. Một hồ sơ FBI khác cũng ghi chép thứ tự cuộc điều tra của Rivele về David và Nicoli: Hồ sơ FBI, số lưu trữ 124-10001-10391; Hồ sơ CIA số 62-109060-8264, đề ngày 14.12.1987)] bắn từ sau hàng rào gỗ của cơ sở Grassy Knoll.
  Tay súng thứ hai được coi như có dính líu vào vụ này là một tay anh chị Marseille tên là Sauveur Pironti và kẻ thứ ba là một người Marseille nữa tên là Joseph Bocognani(280) [(UPI, bản tin quốc tế buổi chiều, 26.10.1988)]. Theo Rivele, David còn giải thích rằng ba người này, sau khi thoả thuận được hợp đồng, đã bay từ Marseille tới đâu đó gần Mexico City khoảng một tháng trước khi xảy ra vụ ám sát. Ba tay bắn thuê lưu lại Mexico City khoảng hai tuần, rồi họ đi xe hơi tới Brownsville, Texas, nơi họ sử dụng hộ chiếu Ý để qua biên giới Mexico-Mỹ. Từ Brownsville, họ được một thành viên Mafia Chicago đón (Sam Giancana lúc này đang làm trùm Mafia ở Chicago) rồi chuyển đến một “nhà an toàn” ở Dallas, Texas. Bây giờ tại Dallas, ba tay ám sát có thời gian để đánh giá về mặt chiến thuật khu vực Dallas mà xe chở JFK sẽ chạy qua; họ khảo sát kỹ lưỡng khu vực này và chụp hình những vị trí then chốt.
  Sau vụ ám sát, Sarti, Pironti và Boccognani đáp máy bay riêng từng người từ Dallas tới Montreal, Canada, sau đó họ được đưa về cứ địa Marseille(281) [(Tài liệu FBI, số lưu trữ 124-10001-10395; Hồ sơ CIA số 62-109060-8260, đề ngày 19.2.1988)].
  Suy nghĩ kỹ, những mối dây ám sát dính tới dân giang hồ Marseille nghe có vẻ hợp lý hơn những giả thuyết phổ biến khác vốn kết tội cho CIA và tập đoàn quân sự – công nghiệp. Những gì Christian David tiết lộ với Rivele còn trực tiếp hàm ý rằng Carlos Marcello có tham gia vào vụ này(282) [(Tài liệu dẫn trên)].
  Khi kết hợp những mối dây suy diễn này cộng thêm thông tin đáng buồn mà David cung cấp, ta không ngạc nhiên khi thấy nền tảng cuộc nghiên cứu về vụ ám sát JFK bị chấn động dữ dội…
  Nhưng không lâu.
 Sau khi nhận được thông tin của David, Rivele đã khôn ngoan kiểm chứng lại, và anh ta yêu cầu David hợp tác chút đỉnh, vì chỉ riêng lời chứng của David thôi chắc chắn sẽ bị khai thác mổ xẻ vì chính David là một tay tội phạm, sát nhân và buôn bán bạch phiến. Nên David cho Rivele biết tên một người khác, một tay Marseille phân phối bạch phiến tên là Michel Nicoli. Nicoli hiện là mật báo viên và nằm trong Chương trình Bảo vệ nhân chứng của Mỹ; nhờ được miễn truy cứu tội lỗi Nicoli được cấp một lý lịch mới để đổi lại việc làm chứng cho DEA trong các vụ xử tội buôn bán bạch phiến. Hồ sơ có ghi rằng Nicoli được FBI và DEA coi như một nguồn thông tin đáng tin cậy. (Sau cùng, bây giờ thì ông ta chẳng có lý do gì để nói dối vì đã nằm trong Chương trình Bảo vệ nhân chứng; chính phủ Mỹ bây giờ là kẽ bảo vệ cho ông ta). Rivele tuyên bố rằng Nicoli đã thực sự khẳng định câu chuyện của David, sau đó Rivele báo cáo chuyện này với giới chức Mỹ, nhưng chính ở đây mà những phát hiện của Rivele bắt đầu mất đi sức mạnh của nó.
  Ngày 8.2.1988, Nicoli được chính thức thẩm vấn về chuyện này bởi Michael Tobin, một nhân viên cao cấp thuộc Ban điều tra bạch phiến của DEA, và Donald Pierce, đặc viên giám sát của FBI. Bản tóm lược chính thức của cuộc thẩm vấn này nói như sau:
  “Nicoli xác định một số trong những điều David nói nhưng chỉ ở mức độ chung chung… Nicoli còn nói thêm rằng vào cuối năm 1965, ông ta, Christian David, Roger Bocognani, Lucien Sarti, Sauveur Loule Pironti… ở trong một quán cà phê ở Buenos Aires. Họ nói chuyện bình thường nhưng loáng thoáng có ai đó nói điều gì, không phải ông ta hoặc David nói, khiến ông ta nghĩ rằng bọn họ (Bocognani và/hoặc Sarti) có dính líu vào vụ sát hại Tổng thống Kennedy”.
  Nghe vẫn còn hấp dẫn hả, phải không? Nhưng ta hãy đọc tiếp tại sao DEA và FBI không còn hào hứng gì với sự “cộng tác” của Nicoli:
  “Trong mức tối đa mà Nicoli có thể nhớ được thì ‘họ" {ám chỉ Sarti, Bocognani và Pironti} có nói gì đó về việc đi Mexico năm 1963, rồi sang Mỹ, và họ có làm gì đó”(283) [(Tài liệu dẫn trên)].
  Họ có làm gì đó à? Nếu ba tay “bắn thuê” này đã xâm nhập vào vụ ám sát rùm beng nhất trong lịch sử, thì không lẽ Nicoli không nhớ được chuyện đó? Chẳng lẽ ông ta không nhớ lại được điều gì chi tiết hơn chuyện “họ có làm gì đó” sao?
  Họ đã làm gì? Hay họ đi xem phim One Step Beyond? Họ nối dải AND? Hay họ đã giết Kennedy?
  Do đó, không khó gì việc hiểu ra tại sao giới chức Mỹ quyết định không phí thì giờ điều tra tiếp chuyện này. Việc Nicoli thừa nhận “họ đã làm gì đó” thì không phải là kiểu cộng tác tích cực. Uy tín một mật báo viên đáng tin cậy của Nicoli hôm đó đã bị sụt giảm vài nấc.
  Nhưng khoan đã, coi nào. Vẫn còn cái gì đó để tìm hiểu tiếp, phải không? Chính ba người đó, ba tay ám sát mà Christian David tuyên bố là đã được thuê giết Kennedy. Tại sao không điều tra họ?
  Sarti, Bocognani và Pironti thực ra đã bị điều tra ít lâu sau khi thông tin này được đưa lên truyền hình Anh. Hoá ra không ai trong số ba người đó được tiếng là dân ám sát chuyên nghiệp. Thay vì thế, họ chỉ là những tay du thủ du thực Marseille bán lẻ ma tuý. Hơn nữa, hai trong số họ còn dưới 20 tuổi vào lúc JFK bị ám sát. Hai trong ba còn dưới 20, nghĩa là cùng lắm họ mới mười chín. Trẻ ranh.
  Thôi nào.
  Làm sao tin được chuyện một tay trùm bạch phiến ranh ma và thế lực như Antoine Guerini lại hợp đồng mấy đứa dưới 20 để làm một vụ ám sát chính trị gay go nhất trong lịch sử? Nếu Kennedy còn sống, Guerini có nguy cơ mất sạch mọi thứ. Nhưng chúng ta có nên tin rằng hắn ta phái mấy cậu trai đi làm cái công việc đẫm máu ấy không? Chúng ta có nên tin rằng những thanh thiếu niên Pháp ấy đã theo dõi chu đáo Quảng trường Dealey như thế, cải trang thành cảnh sát Dallas như thế và sắp xếp một tam giác tuyệt hảo đan chéo các đường bắn để giết được Kennedy không? Khó tin lắm.
  Ngoài ra, sau khi bị điều tra, cả ba người đó đều được chính quyền địa phương làm chứng là không hề có mặt ở bất kỳ đâu gần Dallas, Texas ngày 22.11.1963 cả. Sarti là công nhân bến tàu, Pironti đã đi quân dịch và đang cọ sàn trên một con tàu phá mìn của Pháp còn Bocognani thì đang ở tù(284) [(“Empty revealations over Kennedy’s assassination” Manchester Guardian Weekly, 6.11.1988)].
  Và sau khi khảo sát kỹ hơn, chúng tôi tìm ra vài lỗ hổng trong câu chuyện của David. Một hồ sơ tóm tắt khác của FBI(285) [(Hồ sơ FBI, số lưu trữ 124-10001-10391; Hồ sơ CIA số 62-109060-8264, đề ngày 14.12.1987)] viết rằng David đã nói với Rivele rằng tình báo Pháp đã thuê David năm 1961 để ám sát Patrice Lumumba, thủ lĩnh quân sự của Congo thuộc Bỉ. David cũng tuyên bố rằng CIA đã thuê Lucien Sarti để làm cùng công việc đó! Nhưng chỉ cần nghiên cứu sơ qua các sự kiện là ta thấy ngay những tuyên bố này chỉ là trò ngốc nghếch.Ngày 2.12.1960, Lumumbo bị lực lượng chống đối cầm tù, và ông bị sát hại một tháng rưỡi sau đó, ngày 17.1.1961(286) [(Encyclopedia Britannica, “Lumumba, Patrice (Hemery)”)]. Tại sao tình báo Pháp và CIA lại phái những tay ám sát đi giết một người đã bị cầm tù và lãnh án tử hình? David tuyên bố đã ký hợp đồng làm việc này năm 1961 sao? Lumumba chỉ còn sống được 17 ngày trong năm đó. Ông ta đang ở trong tù và đã bị kết án. Do đó, việc đặt hàng bí mật ám sát Lumumba thì cũng tựa như đào mồ John Wilkes Booth lên và tống giam cái xác ấy vì tội đã giết Lincoln.
  Luật sư của David, Henri Juramy, còn làm thêm những trò ngớ ngẩn nữa. Juramy tuyên bố nắm được một lá thư viết tay trong đó David tiết lộ tỉ mỉ những điều y biết về vụ ám sát Kennedy. Lá thư này, chúng tôi được cho biết, là đã được niêm phong và cất kỹ, và chỉ thị của David cho Juramy là không được mở lá thư đó ra cho đến khi David được phóng thích.
  Một thứ đơn giản được gọi là trát toà đòi có thể giải quyết được vấn đề này, và chúng tôi chỉ có thể đặt nghi vấn về tay nghề luật sư của Juramy thôi, bởi vì nếu có thông tin gì thực sự mới trong lá thư bí mật ấy, Juramy có thể dễ dàng dùng nó để thương lượng nhận tội và hưởng khoan hồng hoặc đạt một thoả thuận phóng thích sớm cho thân chủ của mình. Juramy hẳn là một trong những luật sư chỉ có thể tìm được khách hàng bằng cách quảng cáo giấc khuya trên truyền hình.
  Không, bây giờ đã khá rõ ràng điều gì thực sự đã xảy ra liên quan đến những tiết lộ “động trời” của David. Bằng cách trộn lộn những lời nói dối với một ít sự thật, câu chuyện của David kể cho Rivele thoạt nghe thì có vẻ chân thật, và từ đây rõ ràng David đã lợi dụng tài điều tra và mối quan tâm của Rivele để đẩy ông ta vào cuộc tìm kiếm vô vọng. Tại sao David làm như thế? Bằng cách dẫn dụ Rivele với những lời nói dối pha chút sự thật, David chẳng có gì để mất và nếu được thì được tất cả trong ước muốn tuyệt vọng là không bị trục xuất về Pháp. Và bằng cách tuyên bố mình biết chuyện ám sát Kennedy, giới chức Mỹ có thể dễ dàng chấp thuận cho y điều đó. Trong các nhà tù Mỹ, David chẳng phải lo gì cho mạng sống của mình, nhưng chuyện sẽ không như vậy trong nhà tù Pháp nơi chắc chắn đã có vài hợp đồng muốn thanh toán David. Đó là trò xưa như trái đất trong lịch sử loài người. Trộn lẫn sự thật và dối trá để nghe dễ tin hơn. Không phải những lời dối trá trộn lẫn với sự thật đã dành được sự ủng hộ của công chúng đối với cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam đó sao? Dối trá không trộn lẫn với sự thật trong báo cáo của Uỷ ban Warren để thuyết phục công chúng Mỹ rằng chỉ có một thằng điên thân Cuba đã giết Kennedy đó sao?
  Bây giờ những lời nói dối của Christian David đã bị phơi bày. Nhưng cái lõi sự thật y trộn vào đó là gì?
  Chúng tôi tin rằng David đã nói thật khi ám chỉ rằng trùm ma tuý Marseille Antoine Guerini đã thuê người ám sát JFK. David chẳng phải lo gì lắm chuyện trả thù khi tiết lộ sự dính líu của Guerini. (Guerini đã chết năm 1967, em trai hắn ta đã bị tù, tập đoàn bạch phiến Marseille đã bị các kẻ thù của Guerini thôn tính, bọn này sẽ rất mừng khi thấy sự dính líu của Guerini bị tố cáo trước thế giới). Nhưng sự dính líu của Guerini mở ra con đường dẫn tới một mối liên hệ không chối cãi được của lý luận, động cơ và cơ hội. Mối quan hệ của Guerini với các trùm Mafia Mỹ Carlos Marcello, Santos Trafficante và Sam Giancana là cũng không thể phủ nhận được.
  Nhưng Guerini còn có một mối liên hệ sinh tử hơn – mối liên hệ ảnh hưởng rất lớn đến quyền lực và lợi nhuận của hắn cũng như quyền lực và lợi nhuận của bè lũ Mafia Mỹ – và mối liên hệ đó là Ngô Đình Nhu ở Nam Việt Nam.
 ÂM MƯU
        “{Tổng thống Johnson} cho hay rằng
ông nghĩ âm mưu này có tính quốc tế…”- WALTER CRONKITE(287) [(Tuyên bố của Cronkite với Associated Press năm 1992; Cronkite đang kể lại những gì Lyndon Johnson nói với ông ta trong cuộc phỏng vấn năm 1970 với hãng CBS, tuy rằng những ý kiến tham khảo đó phải được cắt khỏi nội dung được phát sóng; như tường thuật trong Benson.)]

  Âm mưu.
  Một từ nghe dữ dội và sặc mùi hội kín chính trị. Một từ sôi sục với sự bí ẩn và mờ ám. Một cách biểu trưng, nó được định nghĩa như một thoả thuận cùng nhau tiến hành một công việc phi pháp, xấu xa và phản trắc. Một sự kết hợp hoặc cùng nhau hành động, cứ như bởi những mưu đồ xấu xa.
  Những mưu đồ xấu xa? Theo định nghĩa của đa số người, một nổ lực có tính toán trước bởi nhiều thành phần nhằm ám sát một nguyên thủ quốc gia có thể thích hợp với từ này. Thí dụ, ít có ai phản đối chuyện tội ác có tổ chức là một thực thể bao trùm của “cái xấu”. Kiếm lợi nhuận từ nỗi tuyệt vọng của người khác? Từ việc nghiện ma túy? Nghiện cờ bạc? Sách báo phim ảnh khiêu dâm và bán dâm nữ – và cả nam nữa – để thoả mãn những cơn nghiện của họ?
  Chắc chắn rồi. Nếu trên đời này từng có một “mưu đồ xấu xa”, thì chính là đây. Nhưng ý định của chúng tôi không phải là thảo luận về những khái niệm đạo đức đó. Chúng ta đang bàn về một điều gì cụ thể hơn.
  Công việc làm ăn.
  Những giả thuyết phổ biến về vụ JFK có nói tới lợi nhuận kinh doanh – và nhất là thiệt hại lợi nhuận – như một động cơ sát hại Kennedy. Đó là một suy đoán rất thuyết phục: Kennedy bị giết do một âm mưu giữa CIA, thế giới ngầm và tập đoàn quân sự – công nghiệp, vì với ba thế lực này, việc Kennedy nắm quyền đã đe doạ quyền lợi kinh doanh của họ. Kennedy đe doạ CIA vì ông đã sa thải giám đốc CIA Allen Dulles và giám đốc kế hoạch Richard Bissell (người tham gia điều hành chiến dịch Vịnh Con Heo) cũng như nhiều nhân vật thế lực khác có quan hệ với CIA(288) [(Gorden, The Killing of a President.)]. (Và không kỳ lạ sao khi Dulles sau đó được bổ nhiệm vào Uỷ ban Warren?)Nhưng các tác giả của sách này thấy khó mà tin được rằng có bất kỳ nhóm người nào của CIA – tổ chức có nhiệm vụ phục vụ tổng thống – lại thông đồng với nhau ở một mức nào đó để giết ông ta. Một “phần tử bất hảo”? một nhóm những nhân viên bất mãn toa rập với nhau? Có thể lắm. Những ý tưởng cho rằng những thành viên quan trọng của CIA cấu kết nhau để giết Kennedy thì không thuyết phục. Nếu có tổng thống nào đã khiến CIA trông như một tổ chức ô hợp của những thằng ngốc thì đó không phải Kennedy, mà đó là Johnson, người có sự tin cậy quá đáng vào tổ chức này đã góp phần dẫn đến những thất bại quân sự tồi tệ nhất và mức thương vong cao nhất cho quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nếu CIA là những bậc thầy về hoạt động bí mật trong cuộc chiến đó, thì cũng hợp lý khi vạch rõ rằng họ đã không làm tốt công việc của mình lắm. Cho dù các nhà nghiên cứu JFK có cần cù mở rộng các mối liên hệ và các động cơ có thể có thì CIA cũng không dính vào đó. Họ là những người yêu nước mạnh mẽ phục vụ cho quốc gia và tổng thống. Ít có bằng chứng nào gợi lên một điều ngược lại.
  Chúng tôi cũng nghĩ như thế đối với cái được gọi là “tập đoàn công nghiệp – quân sự”. Chúng ta có nên tin rằng quân đội âm mưu giết JFK vì họ muốn tiếp tục cuộc chiến tranh Việt Nam không? Chúng tôi đã dẫn những hồ sơ cụ thể chống lại giả thuyết cho rằng JFK định rút lui khỏi cuộc chiến. Hay một nhóm quân nhân sẽ giết Kennedy để ngăn không cho những doanh nhân nào đó làm giàu nhờ những hợp đồng cung cấp quân dụng? Yù nghĩ này nghe vô lý khi bạn xét nó một cách khách quan. Các nền kinh tế dựa trên chiến tranh thường suy thoái dần; chúng là những lỗ rò làm thất thoát tiền đóng thuế của người dân và tăng thêm lạm phát và bất ổn xã hội. Suốt trong lịch sử, các nền kinh tế tiệm thoái đã dẫn đến cách mạng. Nước Mỹ chẳng thu được lợi lộc gì trong chiến tranh Việt Nam, mà chỉ tiêu phí ngày càng nhiều tiền thuế. Chắc chắn CIA và quân đội biết điều này, và lợi lộc duy nhât mà hai lực lượng này kiếm được là đảm bảo rằng cuộc chiến được chấm dứt càng nhanh càng tốt, nhưng hơn chục năm nay chúng ta cứ bị nhồi nhét ý tưởng rằng các lực lượng đó muốn tiếp tục một cuộc chiến vốn chỉ có thể dẫn đến – và thực sự đã dẫn đến – sự bất mãn của quần chúng, sự phẫn nộ và nổi loạn trên qui mô cả nước.
  Nên với hai lực lượng này, nỗ lực muốn tiếp tục cuộc chiến tại Việt Nam quả là một mâu thuẫn của lý luận.
 Tuy nhiên, bọn băng đảng Mỹ lại là chuyện khác. Chúng ta đã nghe rằng Mafia Mỹ giết Kennedy vì ông ta thất bại trong vụ Vịnh Con Heo, làm thiệt hại nhiều lợi nhuận từ cờ bạc của chúng. Chúng ta đã nghe Mafia Mỹ giết Kennedy để trả thù việc Robert Kennedy dùng Bộ Tư pháp để quấy rối chúng. Nhưng sự thực, việc Robert tấn công tội phạm chẳng đem lại được bao nhiêu án tù cho các đầu lĩnh Mafia. Chắc chắn, Mafia Mỹ ghét anh em Kennedy và chẳng thích trông thấy họ trên đời này. Họ xem anh em nhà Kennedy là những kẽ phản bội cùng cực, vì cha của họ – Joseph Kennedy – cũng từng là dân giang hồ, xây dựng sản nghiệp gia đình nhờ buôn rượu lậu. Và cũng quã là Mafia đã giúp JFK được đắc cử năm 1960 bằng cách can thiệp vào việc kiểm phiếu muộn ở Illinois. Nhưng một mình điều đó thì cũng chưa thành một lý do đủ mạnh để họ tiến hành một vụ ám sát rủi ro và phức tạp nhất trong lịch sử. Qua những yếu tố này, ta thấy khi mạo hiểm như vậy thì họ có nguy cơ là bị mất rất nhiều.
  Anh em Kennedy là một con ruồi trâu đối với Mafia, một chuyện quấy rầy như bọn muỗi vo ve trong buổi picnic. Và còn thêm yếu tố nào tạo ra động cơ không? Chắc chắn là có rồi.
  Nhưng chúng ta đồng ý rằng Mafia Mỹ có một lý do nặng ký hơn để góp phần trong âm mưu giết Kennedy.
  Bạch phiến.
  Hơn bất kỳ lý do nào liên quan đến Mafia, hơn bất kỳ lý do gì khiến Mafia muốn JFK chết, John Kennedy đã đe doạ mạnh mẽ con bò sữa lớn nhất của Mafia: sự an toàn cho việc buôn bán bạch phiến trị giá hàng tỉ tỉ đô la mỗi năm. Từ thập niên 1930, chuyện làm ăn với lợi nhuận phi mã nhất của Mafia là bạch phiến. Mỗi năm lợi nhuận lại càng tăng, theo đà tăng của số con nghiện tuyệt vọng sẵn sàng làm bất cứ gì để mua được món hàng đó. Và những lợi nhuận ấy đã khiến chuyện làm ăn ở Thị trường chứng khoán New York chỉ là trò vớ vẩn. Đến cuối thập niên 1950, việc phân phối bạch phiến là nguồn lợi lớn nhất của Mafia, và cũng là nguồn cội lớn nhất tạo ra quyền lực của thế giới ngầm. Cờ bạc, môi giới bán dâm, bảo kê ư? Tất cả những trò làm ăn luôn thắng lợi trước đây của Mafia này đã phải lui xuống hàng thứ yếu so với doanh số bạch phiến.
  Trong hai chương trước, chúng tôi đã dành khá nhiều thời gian để định ra một số điểm quan trọng không trực tiếp liên quan đến giả thuyết của chúng tôi, và bàn về những điều tổng quát quanh JFK vốn đã trở nên chi tiết hơn nhờ có thông tin mới và những hồ sơ được công bố gần đây. Nhưng bây giờ ta hãy trở về với cốt lõi vấn đề…
  Về trình tự thời gian, âm mưu giết Kennedy hẳn là có trước âm mưu của Kennedy nhằm lật đổ Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam, và chúng ta thấy mầm mống của âm mưu này đã được gieo trồng cẩn thận bởi một loạt những chính khách hàng đầu trong chính phủ Kennedy. Với những độc giả vẫn chưa tin rằng chính phủ Mỹ hậu thuẫn việc lật đổ một quốc gia đồng minh, thì sau đây là một vài minh chứng đã được ghi thành hồ sơ:
  “Trong giai đoạn từ tháng 8 đến ngày 1 tháng 11, chính phủ Mỹ đã phê chuẩn và khuyến khích âm mưu lật đổ chính quyền Nam Việt Nam. Nước Mỹ, qua một loạt những hành động công khai, đã cự tuyệt chế độ Diệm và, thông qua việc ngưng viện trợ, đã khuyến khích các lãnh tụ phe đảo chính hành động chống lại chính phủ này. Chính phủ Mỹ duy trì liên lạc mật với các tướng lĩnh suốt từ lúc lên kế hoạch đến khi tiến hành và tìm cách cố vấn cho họ về những phương án khác nhau. Ngay sau cuộc đảo chính, Mỹ cố vấn cho các tướng lĩnh về việc xây dựng một chính phủ mới và dành cho nó sự công nhận tức thời”(289) [(Thượng nghị sĩ J. W. Fullbright, Chủ tịch Tiểu ban đối ngoại, viết trong lời nói đầu cho “U. S. Invilvement in the Overthrow of Diem, 1963” được biên soạn bởi ban đối ngoại Thượng viện, 20.7.1972.)].
  Đoạn văn đó là của Thượng nghi sĩ J.W.Fulbright, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện.
  Và đây là một tài liệu khác:
  “Về cuộc đảo chính quân sự lật đổ Ngô Đình Diệm, Mỹ phải chịu hết phần trách nhiệm của mình. Bắt đầu từ tháng 8.1963 chúng ta đã cho phép, phê duyệt và khuyến khích những âm mưu đảo chính của các tướng lĩnh Việt Nam và chỉ thị ủng hộ trọn vẹn cho chính phủ kế nhiệm. Tháng 10, chúng ta đã cắt viện trợ cho Diệm bằng một từ chối thẳng thừng, bật đèn xanh cho các tướng lĩnh. Chúng ta đã duy trì liên lạc mật với họ suốt từ lúc lập kế hoạch đến lúc tiến hành đảo chính và tìm cách xem xét lại các kế hoạch hành động của họ và đề nghi về thành phần chính phủ mới. Như thế, khi chín năm cầm quyền của Diệm đi đến một kết thúc đẫm máu, sự thông đồng của chúng ta trong cuộc lật đổ này đã làm tăng thêm phần trách nhiệm và sự dính líu của chúng ta với một Việt Nam không người lãnh đạo”(290) [(The Pentagon Paper, tập II (Boston; Beacon Press, 1972)]
  Đoạn này là của Thượng nghi sĩ Mike Gravel, bình luận về một công trình nghiên cứu về chính sách ngoại giao Mỹ. Không nhằm nhấn mạnh luận điểm quá mức, nhưng ngày 24.11.1998, lại thêm minh chứng nữa về sự thông đồng của JFK đã được đem ra ánh sáng khi 37 cuộn băng ghi âm của tổng thống được giải mật và công bố, và trong một cuộn băng trong số ấy, chính Kennedy đã nói “Chúng ta phải chịu rất nhiều trách nhiệm cho vụ này {vụ đảo chính}”(291) [(Dodds, Paisley, “37 JFK Tapes Made Public” (Associated Press, 25.11.1998)]. Đó là chính miệng Kennedy nói, thừa nhận trách nhiệm của Mỹ.
  JFK còn nói gì nữa trong những cuộn băng ghi âm các buổi họp nội các ấy? Sau đây là một vài mẫu thông tin:
  Ngày 29.10.1963 từ 4 giờ 25 đến 5 giờ 15 chiều, giám đốc phân cục CIA William Colby giải thích cho JFK rằng con số các lực lượng chống Diệm và thân Diệm thì tương đương nhau (mỗi bên khoảng 10.000 người). Robert Kennedy phản ứng trước thông tin này với sự nản lòng và nói “Diệm có đủ lực lượng để bảo vệ chính mình…”. Và Colby đồng ý. Nên điều chúng ta thu được ở đây thì không chỉ là chuyện một đầu não CIA khuyến cáo JFK hoãn cuộc đảo chính lại, mà cả em trai của JFK cũng có ý kiến như vậy. Và sau lần góp ý này, Tổng thống Kennedy đã trả lời ra sao?
  Ông ta nói thế này: “Tôi chắc rằng cuộc đảo chính nào cũng có kiểu như vậy. Nó luôn luôn có vẻ cân bằng, cho đến khi có ai đó hành động”.
  Thật khó mà tưởng tượng ra một câu trả lời vô trách nhiệm hơn của một tổng thống trước các ý kiến cố vấn. Sau đó, cũng trong phòng họp nội các, Robert Kennedy lại tiếp tục cố gắng và thuyết phục JFK huỷ bỏ hoặc tạm hoãn cuộc đảo chính ấy lại. “Tôi thấy chuyện này không có lý chút nào, nói thẳng là thế. Chúng ta đang đặt toàn bộ tương lai của đất nước đó – và cả Đông Nam Á nữa – vào bàn tay của một ai đó mà ta chưa hiểu rõ lắm {Dương Văn Minh}… Nếu vụ này thất bại, tôi nghĩ Diệm sẽ yêu cầu chúng ta rút khỏi đất nước của ông ta ngay… Ông ta sẽ có đủ, với guồng máy tình báo của mình, để biết rằng đã có những tiếp xúc này và những cuộc trao đổi này {giữa nhân viên CIA Lucien Conein và các tướng thuộc phe đảo chính} và ông ta sẽ bắt bớ nhiều người. Họ sẽ nói rằng Mỹ đứng sau vụ này. Tôi nghĩ mình sắp rơi tuột vào một thảm hoạ”.
  Bộ trưởng ngoại giao Dean Rusk và tướng Maxwell Taylor cũng đồng ý. Nhưng sau khi được đại sứ Cabot Lodge bảo đảm rằng cuộc đảo chính có cơ may thành công rất lớn, JFK quyết định tiến tới đồng ý cuộc đảo chính. {Tất cả những thông tin trên, và nhiều hơn nữa, liên quan đến những băng ghi âm của Nhà Trắng mới được công bố đều có thể tìm thấy trong bài báo “The Tale of the Tapes: JFK and the Fall of Diem; Three Weeks Before His Own Assassination, President Kennedy Launched a Coverup in the Assassination of the President of South Vietnam”, của Ken Hughes trên tờ The Boston Globe, ngày 24.10.1999}
  Được rồi, vậy ta hãy đi tiếp, dĩ nhiên mục tiêu chủ yếu của Kennedy trong vụ đảo chính này là anh em Diệm và Nhu – hai người có những hoạt động chống tín đồ Phật giáo một cách gay gắt đã đe doạ uy tín của JFK ở quốc nội cũng như quốc tế. Nhưng nếu có gì thì toàn gia đình Diệm có thể so sánh với một con bạch tuộc mà một cái vòi nhỏ nhất của nó cũng có thể làm hỏng hết kế hoạch.
  Một trong những cái vòi đó là người em dâu của Diệm, thường được gọi là bà Nhu, theo ngôn ngữ bình dân thì gọi là “Bà Rồng cái” (Dragon Lady) và “Đệ nhất phu nhân Việt Nam”. Người phụ nữ này ăn nói phóng túng và gây nhiều tranh cãi đến độ các phóng viên thường nhầm lẫn nghĩ bà là vợ Ngô Đình Diệm, trong khi thực ra bà là vợ của Ngô Đình Nhu, em trai và cố vấn của Diệm, đồng thời là chỉ huy lực lượng phòng vệ dân sự {Thanh niên cộng hoà}, cảnh sát mật, và các mạng lưới tình báo và phản gián của Nam Việt Nam.
 Tên hồi con gái của bà Nhu là Trần Lệ Xuân; bà sinh ra trong một gia đình Phật giáo giàu có nhờ cộng tác với Pháp. Cha của bà, Trần Văn Chương, là một luật sư uy tín; mẹ của bà có dòng dõi hoàng tộc – một kiểu gia đình Kennedy ở châu Á. Tất cả những điều tốt đẹp của cuộc đời đều dư thừa cho bà Nhu ngay từ khi lọt lòng, và cũng như mẹ, bà bước vào đời trong cảnh đài các trong khi cả nước còn quằn quại trong nghèo đói và sự áp bức của Pháp. Được biết tới vì nhan sắc hơn là trí thông minh, Lệ Xuân chưa bao giờ học giỏi và sau cùng bị đánh rớt khỏi một trường trung học tư thục có học phí rất cao, thậm chí chưa từng học viết tiếng Việt, nhưng bà lại trở thành phần thưởng cho cả gia đình khi được cưới gả vào nơi giàu có và quyền thế. Sự thực, chính mẹ của Lệ Xuân, bà Chương, có lẽ đã đưa nỗ lực này đến những cực điểm đáng ngạc nhiên. Người ta đồn bà có nhiều quan hệ lăng nhăng với những đàn ông trẻ – tức là tầng lớp ưu tú của giới quí tộc. Phải chăng bà ta săn tìm chàng rể tương lai cho con gái mình? Có thể như vậy lắm vì một trong nhiều tình nhân qua đường của bà sẽ cưới con gái bà, một tay trí thức tây học con nhà giàu. Tên ông ta là Ngô Đình Nhu.
  Năm 1943, Lệ Xuân cải theo đạo Thiên chúa và kết hôn với Nhu trong một đám cưới linh đình. Bây giờ Lệ Xuân chính thức trở thành bà Nhu. Bà mau chóng đẻ cho Nhu bốn đứa con trong khi vợ chồng bà đứng ngoài cuộc chiến Pháp – Việt Minh, sống trong cảnh xa hoa, kẻ hầu người hạ, tại biệt thự của gia đình họ Ngô ở Đà Lạt. Nhưng năm 1955, họ chuyển ngay về dinh Tổng thống khi Diệm trở thành nguyên thủ quốc gia qua cuộc bầu cử do CIA sắp đặt. Nhu lập tức đứng bên anh trai mình, giúp ông ta tạo hình một quốc gia mới qua việc áp bức dân Phật giáo, sử dụng viện trợ Mỹ sai mục đích, và sau cùng biến thị trường thuốc phiện địa phương thành một cỗ máy lợi nhuận khổng lồ khi bắt được mối làm ăn với tập đoàn bạch phiến Marseille.
  Nhưng bà Nhu, với bản tính năng động, không chịu ngồi yên và ăn kẹo trong dinh Tổng thống trong khi Diệm và chồng mình đang điều hành một quốc gia. Nên bà ta quyết định tạo dựng chỗ đứng cho mình. Một mặt, bà thành lập lực lượng thanh nữ cộng hoà; mặt khác bà dựng đài tưởng niệm Hai Bà Trưng. Nhưng bức tượng lại có nét mặt tương tự bà Nhu. Thỉnh thoảng để phô trương thanh thế bà lại phát động những phong trào bảo vệ đạo đức kiểu Thiên chúa giáo như cấm mở những viện thẩm mỹ, đóng cửa các quán rượu (tuy chính bà cũng là tay uống rượu giỏi và tự hào về sắc đẹp của mình). Bà ủng hộ những cuộc trưng cầu dân ý để chống phá thai, ngừa thai, ngoại tình và li dị.Dân chúng Việt Nam quen phản ứng dữ dội trước những trò này của bà,vì chính anh bà, Trần Văn Khiêm, cũng là tay ăn chơi nổi tiếng Sài Gòn, cặp với các cô gái, hoang phí tiền bạc trong các sòng bài, và sử dụng thế lực gia đình để bắt các chủ tiệm lớn ở ở Sài Gòn nộp tiền bảo kê. Sự thực, bà Nhu được gán cho biệt danh bà Rồng cái, nhưng cũng là Bà hoàng nước đôi.
  Nên nhớ, chính người phụ nữ này đã gọi việc tự thiêu của tu sĩ Phật giáo là “nướng thịt” và gọi những cuộc phản đối của họ với chính phủ Diệm là hành động của đám dân bị “nhiễm độc” vì chủ nghĩa cộng sản, cũng người phụ nữ này đã phát biểu “Cứ để họ tự thiêu và chúng ta sẽ vỗ tay”.
  Một người ngoại hạng, phải không?
  Nhưng hơn bất cứ người khác, bà Nhu – vì nhất quyết can dự vào chuyện chính trị – đã xem đóng góp lớn nhất của bà ta cho đất nước là liên tục lên án chính phủ Mỹ, kẻ đã giúp chính phủ của bà ta chống lại Việt Cộng bằng tiền bạc, vật dụng và con người(292) [(Tóm lược cuộc đời, hôn nhân và hoạt động của bà Nhu được mô tả chi tiết rất tốt trong Vietnam: A History của Karnow.)].
  Nên cũng không ngạc nhiên chuyện bà ta bị đánh rớt ở trường trung học.
  Thực vậy, bà Nhu đã tiến hành một chiến dịch bôi bác nước Mỹ ngay từ ngày bà bước vào dinh Tổng thống. Nhưng chủ yếu, nhưng phê phán gay gắt của bà đối với Mỹ chẳng bao giờ vượt quá những tờ báo của chính quyền Nam Việt Nam.
  Cho đến khi xảy ra sự đàn áp Phật giáo.
  Mùa hè 1963, khi các tu sĩ Phật giáo bắt đầu tự thiêu để phản đối chế độ Diệm, sự phẫn nộ chung đã đánh động tới báo chí quốc tế, và cùng với nó là những tuyên bố bài Mỹ rất cay đắng của bà Nhu.
  Đột nhiên Kennedy và Bộ ngoại giao của ông ta nhận ra bà Nhu cũng tai hại cho viễn tưởng tái đắc cử năm 1964 của Kennedy không kém gì Nhu và Diệm. Trong khi đó, để làm tình hình tồi tệ hơn, bà Nhu lại xin thông hành sang Mỹ để tiến hành một vòng diễn thuyết qua nhiều thành phố. Chuyện này cứ như trái bơm với Văn phòng bầu dục của Kennedy. Ban đầu chiến thuật là từ chối cấp chiếu khán... nhưng cái giá cao phải trả cho chuyện đó là những phê phán gay gắt hơn của bà Nhu trước các hãng tin quốc tế hoạt động tại Sài Gòn. Việc này lại càng gây khó cho Kennedy hơn nữa.
  Rồi có ai đó nảy ra một ý nghĩa.
  Vào tháng 6, nếu không nói là sớm hơn, Nhà trắng bắt đầu nghiêm túc xem xét về khả năng đảo chính Diệm, bắt nguồn từ thông tin về cuộc gặp gỡ giữa cố vấn Michael Forrestal trong Hội đồng an ninh quốc gia với Đại sứ Nam Việt Nam tại Mỹ, Trần Văn Chương (chính là bố của bà Nhu). Chương nói với Forrestal vào mùa xuân 1963 rằng chế độ áp bức của Diệm không thể thắng được cuộc chiến và đệ nghị rằng giải pháp duy nhất là dùng vũ trang lật đổ Diệm(293) [(FRUS, Vol. III)]. Điều này rõ ràng đã khiến Kennedy phải suy nghĩ, và sau đó, Nhà trắng bắt đầu lên kế hoạch với các tướng lĩnh chống Diệm nhằm đạt mục đích đó. Nhưng bà Nhu là một trở ngại hiển nhiên cho kế hoạch. Là kẻ lắm mồm nhất trong nhóm ba người nhà Diệm, cái chết của bà ta trong cuộc đảo chính có thể gây nghi ngờ cho những người chống đối Kennedy, nhất là những kẻ biết rõ ông ta có dính líu đến các âm mưu ámsát Castro sau vụ Vịnh Con Heo(294) [(Tài liệu của Hội đồng an ninh quốc gia (qua Ủy ban Rockefeller); Số lưu trữ 1781000210406; Hồ sơ CIA: ASSASSINATION MATERIAL MISC. ROCK/CIA.)]. Nhưng ở đâu đó trên đường dây, một bóng đèn tắt phụt và vấn đề được giải quyết.
  Kennedy, Lodge, McNamara, các ông Bundy và những người còn lại của Bộ ngoại giao, đến cuối mùa hè 1963, đã biết rằng các tướng lĩnh Nam Việt Nam sắp tiến hành một cuộc đảo chính. Nhà trắng biết điều đó vì Nhà trắng tiếp tay khởi động chuyện này và phát tín hiệu đồng ý cho các tướng lĩnh. Nhưng một điều mà Nhà trắng không biết, đó là cuộc đảo chính sẽ nổ ra chính xác là vào ngày giờ nào. Lúc đó Kennedy và Bộ ngoại giao chỉ biết rằng nó sẽ xảy ra khoảng mùa thu 1963.
  Phải chăng là sự tình cờ ngẫu nhiên khi chính phủ Mỹ, trước đó đã từ chối không cho bà Nhu nhập cảnh, đột nhiên lại cấp chiếu khán cho bà ta vào mùa thu 1963?
  Ngày 7.10.1963 bà Nhu nổi tiếng bài Mỹ được nhập cảnh vào Mỹ và bắt đầu chuyến diễn thuyết ồn ào và gay gắt của mình, qua nhiều trường đại học lớn như georgetown, Princeton, Howard,... để vận động sự ủng hộ của ông chồng và ông Diệm (và tiếp tục chỉ trích chính phủ Kennedy); ngoài ra bà còn trả lời mấy cuộc phỏng vấn truyền thanh và thậm chí còn xuất hiện trong những chương trình truyền hình như Meet The Press, The Today Show, và chương trình của David Susskind. Nhà trắng biết rằng họ phải chịu đựng cảnh này một thời gian, nhưng họ biết rằng một khi cuộc đảo chính xảy ra, mọi chuyện bà Nhu nói sẽ hoàn toàn biến mất khỏi trang nhất các báo.
  Chuyện xảy ra đúng như vậy.
  Khi Diệm và Nhu chết trong cuộc đảo chính, bà Nhu làm rùm beng với báo chí Mỹ...nhưng lúc đó chẳng còn ai quan tâm nữa. Những lời đe doạ và khích bác của bà Rồng cái đối với Mỹ bị báo chí làm ngơ khi họ tập trung chú ý vào vụ đảo chính. Ít lâu sau, bà ta bị trục xuất khỏi Mỹ, để lại nhiều hoá đơn khổng lồ chưa thanh toán tại khách sạn Beverly Wilshire. Bà ta qua Paris, rồi sang Rome để sống với các con ở đó, và suốt từ đó, bà ta im lặng một cách kỳ lạ về cái chết của chồng và anh chồng, chỉ sống ẩn dật trong một biệt thự tối tăm mà người ta đồn là thuộc sở hữu của giáo hiệu Thiên chúa giáo.
  Nhưng hồi 1963, nỗi e sợ của Kennedy đối với cái miệng tai hại của của bà Nhu đã được thu xếp ổn. Sau vụ đảo chính, bà ta không thốt ra một lời phản đối nào nữa.
  Vậy là, Phần I của kế hoạch rất thành công, nhưng còn những phần khác cần thu xếp nốt, và một trong những phần đó là cha bà Nhu, ông Trần Văn Chương, Đại sứ Nam Việt Nam tại Mỹ. Kennedy rất cần sự ủng hộ của Chương cho cuộc đảo chính này (một điều Chương đã gợi ý hồi mùa xuân với cố vấn Michael Forrestal của Hội đồng an ninh quốc gia trong một cuộc họp được bảo mật). Không có bằng chứng tuyệt đối nhưng có thể nói rằng có rất nhiều lời đồn cho rằng Tổng thống Kennedy đã đích thân gặp Đại sứ Chương vào tháng 8 và yêu cầu ông ta từ nhiệm chức đại sứ, vì lợi ích quốc gia.
  Đó là tin đồn.
  Nhưng không kì lạ sao khi Đại sứ Chương đã từ chức ít lâu sau lần gặp mặt mà người ta đồn đại đó? Và kế đó, Chương cũng đi một vòng diễn thuyết, phản bác lại những phê phán của con gái mình đối với nước Mỹ.
  Có vẻ hơi như...hơi kỳ quặc, phải không? Nhưng đó chính là chuyện đã xảy ra.
  (Chuyện có lẽ còn kỳ lạ hơn là chuyện hai thập niên sau, Chương và vợ bị ám sát tại nhà riêng của họ tại Washington DC,và kẻ sát nhân bị kết án là con trai của họ, em bà Nhu – Trần Văn Khiêm. Khiêm không hề bị chính thức xử hay kết án mà chỉ bị an trí vào bệnh viện tâm thần St. Elizabeth. Tuy nhiên,ông ta cứ nhất định mình vô tội, và tuyên bố rằng bố mẹ ông ta bị giết bởi vì họ biết được về “vụ ám sát Kennedy”(295) [(Howard, Alison, “Suspect in 2 Deaths Risist Drugs”, The Washington Post, 6.12.1991)]).
  Hãy trở lại với năm 1963, hai trở ngại đối với kế hoạch lật đổ Diệm của Nhà trắng đã được giải quyết. Nhưng vẫn còn nhiều nữa, và trở ngại lớn là người anh trai lớn nhất và ảnh hưởng nhất của Diệm, Tổng giám mục Ngô Đình Thục, đại diện Vatican tại Nam Việt Nam.
  Gọi ông Thục là người cấp tiến thì còn hơi nhẹ (cuối đời, ông ta bị Giáo hội Thiên chúa giáo cắt phép thông công không phải một mà tới hai lần, vì những hoạt động dị giáo(296) [(Associated Press, “Pope to Have Frist Meeting with Vietnamese Catholics”, 14.8.1993)], và gọi ông là kẻ tham nhũng thì hơi lịch sự (Thục bóp nặn tiền viện trợ quân sự Mỹ từ các tỉnh trưởng(297) [(FRUS, IV)].
  Thục cũng là một khối cồng kệnh cản trở kế hoạch của Nhà trắng. Chuyện các bạo chúa chính trị bị giết trong lúc xảy ra đảo chính là một lẽ, nhưng Tổng giám mục Thục là nền tảng gia tộc của nhà họ Ngô, và ông cũng bị những kẻ chống đối thân Phật giáo thù ghét. Nói chính xác hơn, nếu Thục còn có mặt ở Nam Việt Nam khi đảo chính xảy ra, Kennedy sẽ gặp nhiều rủi ro hơn khi người ta khám phá rằng chính phủ của ông đã hỗ trợ cuộc đảo chính bằng tin tình báo, tiền bạc và vũ khí. Điều này sẽ gắn Kennedy – một Thiên chúa giáo – với một hành động chính trị đem lại cái chết cho một Tổng giám mục Thiên chúa giáo, một chuyện sẽ khó được dân Mỹ thiên chúa giáo chấp nhận.
  Nên cũng không khó tưởng tưởng ra những gì Kennedy đã thảo luận với Giáo hoàng trong chuyến viếng thăm Vitican bất ngờ của ông vào đầu tháng 7. Đột nhiên người ta quyết định triệu tập Ngô Đình Thục đến Rome để dự một hội nghị giám mục trong quãng thời gian dự định nỗ ra cuộc đảo chính.
  Thêm một vấn đề được giải quyết. Nói cách khác, Thục là một trở ngại cho kế hoạch lật đổ Diệm và Nhu, và vậy đó, tự nhiên trở ngại đó được dọn sạch. Tình cờ ngẫu nhiên chăng?
  Dịêm có em trai thứ tư – một người em vô hại – đi xa giữ vị trí một sứ thần ngoại giao ở Anh. Kennedy không cần phải ưu tư về ông ta, và chúng tôi đã nói tới chuyện gì đã xảy ra với người em thứ năm, Cẩn, đại diện của chính phủ tại Trung phần: sau khi đảo chính nổ ra, Cẩn bị quân của Dương Văn Minh giết chết sau khi ông ta đã được Lodge hứa hẹn bảo vệ.
  Trên đây, chúng tôi đã lược qua bằng chứng không thể phủ nhận về một âm mưu từ phía Nhà trắng của Kennedy nhằm lật đổ chính phủ Nam Việt Nam, hệ quả của nó là cái chết của tổng thống Diệm.
  Chúng tôi ghi nhận rằng, hơn bất cứ gì khác, đây là mảnh đất màu mỡ trên đó âm mưu ngược lại đã được gieo hạt, đó là âm mưu đã dẫn đến cái chết của tổng thống Kennedy.
 NHỮNG NGƯỜI TRONG BÓNG TỐI
“Họ {FBI} cảm thấy rằng Jean {Souetre} đã biếtai hoặc chính hắn ta đã ám sát Kennedy”- BÁC SĨ LAWRENCE ALDERSON(298) [(Phỏng vấn bác sĩ L.M.Alderson qua điện thoại của J.Gary Shaw – 1855.10.1977; 4:30 chiều)]

  Bây giờ một số đầu mối lụn vụn lỏng lẻo đã được nối kết lại, và chúng ta đã tái khẳng định được âm mưu của chính JFK nhằm lật đổ nguyên thủ của một nước đồng minh, ta hãy trở lại với chương 17 và những tên gọi trực tiếp liên quan đến cái mà chúng ta tin là hồ sơ quan trọng nhất về vụ JFK đã từng được công bố cho đến nay: hồ sơ 632-796 của CIA
  Chúng ta đã có Jean Rene Souetre, một tay OAS khủng bố, và là người có lẽ đã mượn tên của một cựu binh Pháp kháng chiến trong Thế chiến 2 nhưng đã trở thành đầu lĩnh buôn lậu bạch phiến cho Guerini và tập đoàn ma tuý Marseille.
  Và, nhờ bằng chứng ấy, chúng ta biết được rằng Souetre đã ở Dallas, Texas vào buổi chiều Kennedy bị ám sát. Và chúng ta cũng biết rằng trong vòng 48 giờ sau vụ ám sát, Souetre đã được bộ phận nào đó của Bộ Tư pháp Mỹ đón đi và bí mật đưa ra khỏi nước Mỹ(299) [(Tài liệu CIA 632-796)].
  Souetre có những động cơ mạnh mẽ nhất để mưu sát Kennedy. Hắn đào ngũ khỏi quân đội Pháp tại Algeria để tham gia tổ chức cánh hữu OAS. Đó là một tổ chức thù ghét Kennedy vì ông này gây áp lực buộc DeGaulle phải cho Algeria được độc lập trọn vẹn đối với khối Liên hiệp Pháp. Ngoài ra, OAS cũng không xa lạ với hành vi ám sát (đó là một phần trong tôn chỉ hoạt động của họ); họ đã ám sát nhiều cảnh sát, quân nhân và viên chức chính phủ trong chiến dịch khủng bố của họ, và những tay bắn tỉa thường xuyên được sử dụng để làm những việc này. Hơn nữa, OAS đã nhiều lần mưu ám sát Tổng thống Pháp DeGaulle, và chúng ta biết rằng chính CIA cũng cho rằng Souetre có dính líu đến ít nhất là một trong những lần mưu sát đó(300) [(Tài liệu CIA CSCI –3/776.742)]
  Do đó, Souetre rõ ràng là một người có động cơ, phương tiện, kỹ năng và quá trình thụ huấn để đảm nhận công việc hạ sát Kennedy. Nhưng chúng ta cũng biết rằng Souetre và Mertz có biết lẫn nhau ở thời điểm nào đó (cuối thập niên 1950 đến đầu thập niên 1960) và làm sao chúng ta biết điều đó? Bởi vì Souetre đã thừa nhận điều đó trong hai cuộc phỏng vấn vào năm 1983 và 1999(301) [(Hurt, tr. 419; Phỏng vấn Souetre của Monique Lajournade, 9.6.1999)].
  Như thế, là một tay khủng bố nên thật hợp lý về mặt thực tiễn khi Souetre sử dụng tên của kẻ thù Michael Mertz khi đi đây đi đó vì những mục đích mờ ám. Hắn sẽ để lại dấu vết mà nó sẽ dẫn ngược, không phải về tới chổ hắn, mà tới người mà hắn căm ghét.
  Nhưng có một khả năng rất quan trọng mà 632-796 không xem xét tới.
  Có thể Jean Rene Souetre không phải là người mà Bộ Tư pháp Mỹ bí mật trục xuất khỏi Dallas ngay sau cái chết của JFK. Có thể đó thực sự là Mertz, nhưng đội tên của Souetre.
  Chúng tôi tin điều này.
  Có ba lý do tại sao chúng tôi nêu luận điểm này ra để chúng ta xem xét. Thứ nhất, Michael Victor Mertz cũng có quá trình huấn luyện, kỹ năng và kinh nghiệm trận mạc như Souetre, nếu không muốn nói là nhiều hơn. Mertz là anh hùng trong lực lượng Pháp kháng chiến; trong hai năm ông ta đã giết nhiều lính Đức trong lãnh thổ Đức chiếm đóng. Lực lượng Pháp kháng chiến gồm những chiến binh du kích với những chiến thuật chủ yếu là phá hoại và ám sát. Phương pháp định vị tam giác giữa các tay bắn tỉa cũng thường được dùng để đối phó với những sĩ quan Đức trên trận địa. Và đây chính là cuộc sống của Mertz khi ông ta chỉ huy đơn vị kháng chiến tinh nhuệ của mình trong Thế chiến 2. Nói cách khác, Mertz rõ ràng có kỹ năng được trui rèn qua trận mạc và cần thiết cho việc ám sát một tổng thống.
  Thứ nhì, ông ta cũng có động cơ vững chắc để muốn Kennedy phải chết. Kennedy – và Bộ Tư pháp do em trai Robert của ông ta chỉ đạo – đang tiến hành một cuộc chiến toàn diện chống Mafia, nhất là các ông trùm tội phạm có tổ chức Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos Trafficante, tất cả những kẻ điều hành hệ thống phân phối bạch phiến trên đất Mỹ, và tất cả những kẻ nhận hàng từ các lò bạch phiến Marseille của Antoine Guerini. Và chúng ta biết rằng Mertz đã trực tiếp làm việc cho tập đoàn bạch phiến đó. Cuộc tấn công của Kennedy nhắm vào các trùm Mafia Mỹ đã đe doạ sự ổn định của thị trường ma tuý, mà điều này lại đe doạ sự ổn định của thị trường bạch phiến Marseille của Guerini. Hầu như tất cả bạch phiến bán cho con nghiện Mỹ đều xuất phát từ Marseille sau khi nó được chế biến từ thuốc phiện do Ngô Đình Nhu cung cấp. Do đó, Guerini và tập đoàn của y sẽ thiệt hại rất lớn – mất thị trường lớn nhất của họ – nếu Kennedy có thể duy trì cuộc chiến chống Mafia Mỹ.
  Mertz cũng sẽ thiệt hại rất nhiều: nguồn tiền bạc, lối sống, và quyền lực. Lý do thứ ba, và là lý do hàng đầu, khiến chúng ta nghĩ Mertz sử dụng tên của Souetre tại Dallas hơn là trường hợp ngược lại thì dựa trên một điều hoàn toàn khách quan.
  Jean Rene Souetre đích thực đã được nhà báo Pháp Jacques Chambaz nhận diện và tìm ra tông tích năm 1983. Souetre không chỉ thừa nhận có biết Michael Mertz trong quá khứ, hắn ta còn hàm ý rằng họ còn là kẻ thù của nhau trong một thời gian dài, và quan trọng hơn nữa, hắn còn khẳng định Mertz đôi khi còn dùng tên Souetre khi đi đây đi đó(302) [(Hurt)].
  Bây giờ ta hãy nhìn lại một số mẫu ghép còn chưa rõ cũng như cuộc phỏng vấn tường tận nhất từng được thực hiện với Jean Rene Souetre.
 CUỘC PHỎNG VẤN SOUETRE NĂM 1999
“Người ta không thể nói rằng Mertz là một anh hùngthời chiến, ông ta thực sự chỉ là một kẻ sát nhân”- JEAN RENE SOUETRE

  Chúng ta có nhiều chi tiết liên hoàn để suy diễn trong chương này: nhiều nhận xét kỳ lạ dựa trên những sự kiện rất thuyết phục có trước, “một điều bất hảo” trong lẫn lộn nhiều thứ, và trên hết là một cơ hội để nghe chính Jean Souetre phát biểu về vấn đề này.
  Thật kỳ lạ khi ta nhìn kỹ hơn vào tập thể người Pháp cứ xuất hiện ở đây, ban đầu là trong cái chết của Diệm, rồi đến cái chết của Kennedy. Về vụ sát hại thứ nhất , chúng ta phải nhớ rằng Diệm, Nhu và bà Nhu là người Việt về mặt chủng tộc, nhưng về văn hóa họ là người Pháp. Họ lớn lên trong nền văn hoá Pháp, được giáo dục tại Pháp, và sử dụng tiếng Pháp lưu loát. Chuyện cũng tương tự như vậy với các tướng lĩnh đảo chính đã lật đổ và giết chết Diệm khi Mỹ bật đèn xanh cho họ. Và lý do chính yếu khiến chính những tướng lĩnh ấy tin cậy nhân viên CIA Lucien Conein là bởi vì ông này có gốc Pháp và đã hoà nhập vào ngôn ngữ và phong tục (và điều này giải thích tuyên bố của Conein rằng ông ta thấy rất quen thuộc không những với các tướng lĩnh nổi loạn mà với cả phần lớn những tay anh chị gốc đảo Corse sống tại Sài Gòn. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ McNamara, trong cuộn băng ghi âm được công bố gần đây, đã gọi Conein là “một người Pháp không ổn định”). Về vụ ám sát Kennedy, chúng ta lại có thêm hai người Pháp nữa được nhắc tới trong hồ sơ 632-796 (Mertz và Souetre), Tổng thống Pháp Charles DeGaulle (người đã đích thân gắn huy chương cho Mertz sau Thế chiến 2 và sinh mạng của ông được cứu vãn phần lớn nhờ việc Mertz xâm nhập vào trại giam các thành viên OAS), nhiều nhân viên SDECE Pháp đã bảo vệ Mertz, trong nhiều năm, khỏi các án tù vì buôn bán bạch phiến, và ngay cả trùm Mafia Mỹ Carlos Marcello cũng ra đời ở Tunisia (một xứ bảo hộ của Pháp) và lớn lên trong khu Pháp kiều ở New Orleans. Giữa tất cả những điều đó, chúng ta có tập đoàn bạch phiến quốc tế, đặt tổng hành dinh ở Marseille, Pháp, và do anh em Guerini người Pháp điều hành. Nguồn cung phần lớn nguyên liệu thuốc phiện cho họ là thông qua Nhu và kẻ trung gian là Rock Francisci, cũng là một người Pháp.
  Bây giờ ta hãy gặp một người Pháp nữa, giống Rock Francisci, đã sống gần như suốt đời ở Đông Nam Á. Người này là Matthew Franchini. Bề ngoài ông ta được mô tả như một thương gia trọng nguyên tắc và là một chủ khách sạn đáng kính (ông ta sở hữu khách sạn Continental nổi tiếng ở Sài Gòn). Tuy nhiên sự thực thì Franchini là bộ não đàng sau các chuyến hàng thuốc phiện của Rock Francisci từ Sài Gòn sang các lò bạch phiến Marseille(303) [(McCoy)]. Tại sao điều này quan trọng thế? Vì Franchini là một khâu vô giá trong đường dây chỉ huy của thế giới ngầm Marseille, nếu không muốn nói là đường dây chỉ huy tập đoàn bạch phiến toàn cầu. Franchini cung cấp cho Marseille sản phẩm morphine vốn được Rock Franchini chở thoải mái về Sài Gòn (những chuyến bay do Nhu bảo kê). Lúc đó chính Franchini là người thu xếp để chuyển hàng an toàn tới Marseille, dĩ nhiên là cũng được bảo kê bởi những nhân viên SDECE vốn đã bảo kê cho Mertz. Một nhân vật đặc biệt quan tâm đến sự an toàn của nguồn cung cấp này đã đích thân tới Sài Gòn để gặp gỡ các trùm bạch phiến từ các nơi trên thế giới, và người đó chẳng là ai khác hơn Santos Trafficante(304) [(McCoy)].
  Nhưng hầu hết những nguồn tài liệu về Matthew Franchini là những nguồn “vô danh” của toà đại sứ Mỹ và những nguồn tương tự. Còn có ai khác có thể nói với chúng ta về Franchini, một ai đó sẵn sàng để người khác nhận diện?
  Có đấy. Jean Souetre.
  Mùa xuân 1999, đồng tác giả O’Leary của sách này hợp đồng với nhà nghiên cứu Pháp Monique Lajournade, người có thể xác định Souetre vẫn còn làm việc trong vai trò giám đốc quan hệ đại chúng của sòng bạc Divonne, tại Divonne les Bains, nước Pháp. Ngày 9.6.1999, Souetre rất hoan hỉ đồng ý cho phỏng vấn, và sau đây là những gì hắn nói về Matthew Franchini:
  “Ông ấy là dân đảo Corse. Tôi biết rằng họ đã dính vào việc buôn bán bạch phiến, và chính milieu {băng đảng} của dân Corse chuyên làm vụ này. Mertz đã có quan hệ với họ từ lâu, và hoàn toàn có thể họ là nhà cung cấp {bạch phiến} cho ông ta”.
  Sau cùng, một người trong “nghề” xác nhận cho điều mà chúng ta đã tuyên bố từ lâu. Bây giờ chúng ta hãy xem Jean Souetre nói gì về con người mà chúng ta tin là một trong những tay bắn tỉa tại Quảng trường Dealey trong ngày 22.11.1963 đó: Michael Victor Mertz.
 Nhưng trước hết hãy gạt bỏ mọi nghi ngờ cho rằng Mertz và Souetre là một người. Sau cùng, hai người này có những đặc điểm tương tự. Về điều này, Souetre nói: “Phải, thật kỳ lạ, bởi vì chúng tôi đều là đại uý dù. Chúng tôi có cùng kiểu hành xử về thể chất, bởi vì có cùng quá trình huấn luyện. Người ta thường có những thái độ tương tự nhau. Nhưng cũng có vấn đề tuổi tác, và Mertz hẳn là lớn hơn tôi mười tuổi, và ông ta đã ở trong lực lượng kháng chiến trong Thế chiến 2. Nhưng sự thực, nếu bạn biết ông ấy, bạn sẽ thấy là không thể tin được”.
  Chúng tôi không nghi ngờ điều đó. Thực vậy, Mertz lớn hơn Souetre mười tuổi (ông ta sinh năm 1920, Souetre sinh năm 1930). Khi Mertz đang chỉ huy các chiến sĩ du kích chống Đức, Souetre mới 13 tuổi.
  Bây giờ hãy xem Souetre còn nói gì khác.
  Hỏi: Ông gặp Mertz khi nào?
  Đáp: “Trong thời kỳ OAS; ông ta là một trong những barbouze đã xâm nhập OAS, đóng vai một người ủng hộ tích cực. Công việc của ông ta là xâm nhập tổ chức của chúng tôi và phơi bày, tố giác các mạng lưới. Nên tôi có cơ hội gặp ông ta. Lúc đó là cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, trước khi tôi bị bắt. Và có lẽ tôi còn gặp ông ta sau đó, tôi không nhớ nổi.
  “Vì Mertz, nhiều thành viên OAS đã bị bắt. Không phải ai cũng biết ông ta. Ông ta thường tự giới thiệu là đại uý dù để làm quen với các thành viên trong tổ chức và trở nên gần gũi hơn. Vào lúc đó chúng tôi không có thời gian để điều tra gốc tích và các hoạt động trước đó của các thành viên mới. Ông ta thực sự đã gây thiệt hại cho tổ chức.
  “Sau này, một khi đã biết về ông ta, tôi nghĩ ông ta đã được chuyển đi nơi nào khác. Thường thì người ta không giữ một mật viên khi hắn ta bắt đầu trở nên không đáng tin cậy nữa. Các tổ chức mật vụ Pháp quan tâm đến ông ta vì hai lẽ: thứ nhất để bảo vệ DeGaulle, người đi công du rất nhiều và định sang thăm Mexico và Nam Mỹ. Như trong mọi tổ chức mật vụ khác, người ta cố gắng xác định những người có thể gây nguy hiểm. Tôi nghĩ ban đầu Mertz cũng được sử dụng như thế. Nhưng chắc chắn ông ta không được phép tiếp xúc với những người đang chuẩn bị ám sát Kennedy. Có thể Mertz đã được sử dụng để thông tin cho mật vụ Pháp về vụ này, và để tố giác láo OAS”.
  Hỏi: Ông nghĩ sao về chuyện Mertz có thể sử dụng tên của ông?
  Đáp: “Tôi nghĩ rất có thể Mertz đã ở Mỹ, vào thời điểm Kennedy bị ám sát, và sử dụng tên của tôi”.
  Hỏi: Năm 1984, trong một phỏng vấn ngắn với Jacques Chambaz cho tờ Quotidien de Paris, ông có đề cập rằng Mertz là một trong những kẻ thù của ông. Có phải ông đã xem Mertz là một kẻ thù không?
  Đáp: “Mertz đã thâm nhập OAS với mục đích duy nhất là phá hoại. Ông ta là một mật viên của một tổ chức chống lại chúng tôi; nên ông ta là kẻ thù của chúng tôi”
  Hỏi: Ông có nghĩ ông ta có góp phần trong việc ám sát Kennedy?
  Đáp: “Điều tôi thấy rất lạ là ông ta đã có mặt ở đó, tại Dallas trong ngày xảy ra tội ác với tên của tôi. Ông ta làm gì ở đó vào ngày ấy? Rõ ràng ông ta biết rằng sắp có chuyện xảy ra, và biết rằng đội tên đại uý Souetre ông ta có thể đổ tội cho CNR”
  Hỏi: CNR là gì?
  Đáp: “Đó là tên gọi sau này của OAS. Vào lúc đó, CNR đang xây dựng những quan hệ tích cực với một số thành viên của Lầu Năm Góc, như những thành viên cánh hữu có tư tưởng chống cộng mạnh mẽ và tìm được những ý tưởng chung trong những quan hệ với CNR. Vì có khả năng nhận được giúp đỡ từ phía người Mỹ, một số người Mỹ nào đó, nên hiển nhiên mật vụ Pháp {SDECE} làm việc cho DeGaulle phải ngăn chận những quan hệ đó bằng mọi cách và một người trong bọn họ phải làm cho chúng tôi trông có vẻ như những con người điên loạn, dị thường. Mật vụ Pháp sẽ làm bất cứ gì để ngăn chặn những quan hệ giữa chúng tôi với người dân Mỹ”.
 Hỏi: Ông biết gì về Mertz và hoạt động của ông ta trong Thế chiến 2, và về ý nghĩ cho rằng ông ta là anh hùng thời chiến?
  Đáp: “Một anh hùng thời chiến à? Mertz đã bị bắt vào lính Đức, đó là những dân vùng Alsace – Lorraine bị Quốc xã động viên; ở đó hẳn Mertz chẳng làm gì nhiều, có lẽ ông ta đã đào ngũ để gia nhập lực lượng Pháp kháng chiến, nhưng đó là lực lượng kháng chiến do Gandoin lãnh đạo, một nhánh kháng chiến thân cộng ở khu vực Tulle thuộc Creuse. Đó là về cuối cuộc chiến, trong một giai đoạn khi phe cộng sản mạnh trở lại. Họ giết tất cả những người cánh hữu có thể trở thành thù nghịch với cộng sản trong tương lai. Theo thông tin chúng tôi có được về Mertz, chúng tôi biết rằng ông ta cũng có mặt trong vụ này, rằng ông ta đã tham gia vào những vụ sát nhân vỡ lòng đó. Người ta không thể nói rằng Mertz là một anh hùng thời chiến, ông ta thực sự chỉ là một kẻ sát nhân, và được sử dụng như một kẻ sát nhân mà thôi”.
  Hỏi: Việc ông ta thâm nhập OAS không giúp ông ta ngăn chặn được một âm mưu ám sát DeGaulle của OAS sao?
  Đáp: “Tôi không biết. Điều đó rất có thể”.
  Hỏi: Khi làm việc cho tập đoàn bạch phiến Marseille, ông ta cũng là tay chân của SDECE?
  Đáp: “Ông ta luôn thuộc về một tổ chức. Ông ta nằm trong một tổ chức mật ít được biết tới của giới barbouze dưới quyền chỉ huy của M. Sanguinetti, một kẻ chống OAS và sử dụng những người như Mertz để xâm nhập OAS… Bọn barbouze luôn sẵn sàng cho mọi chuyện và được sử dụng theo kiểu đó bởi Sanguinetti, kẻ luôn ủng hộ Mertz và giúp hắn thoát ra khi gặp tình thế khó khăn”.
  Hỏi: Ông có biết gì về mối nghi ngờ rằng Mertz, vì nằm trong giới barbouze, nên đã được phép tiếp tục vận chuyển bạch phiến mà không sợ bị bắt giữ?
  Đáp: “Khi Mertz bị bắt, ông ta không ở tù lâu, vì Sanguinetti lại kéo ông ta ra, nên ông ta có thể tiếp tục những việc làm xấu xa của mình”.
  Hỏi: Hồ sơ 632-796 của CIA nói rằng một trong ba người này (ông, Mertz hoặc Roux) đã có mặt ở Dallas vào ngày Kennedy bị giết. Ông có biết ai tên là Roux không?
  Đáp: “Tôi không nhớ ra ai mang tên đó. Tôi tin rằng người có mặt tại Dallas hôm đó là Mertz đội tên tôi vì những lý do tôi đã nêu trên”.
  Hỏi: Ông có thể nói gì về đầu mối bạch phiến của Mertz và họ có thể có liên hệ với Đông Nam Á như thế nào?
  Đáp: “Bạn biết đó, họ là một băng đảng mật và không có dấu vết rõ ràng, hỗn hợp một chút ma tuý, chút mafia, tổ chức bán dâm – cái này xen với cái kia. Ơû đây bạn cũng thấy chút cái này hay cái nọ. Mafia duy trì hoạt động buôn bán ma tuý, và đám barbouze mà Mertz có liên hệ chắc chắn có liên lạc với những người ở Việt Nam. Nguồn cung cấp thuốc phiện trong giai đoạn chủ yếu là từ Đông Nam Á”.
  Hỏi: Hồ sơ 632-796 của CIA ghi rằng trong vai trò một thành viên OAS ông đã tiếp xúc với CIA ở Lisbon và nhờ họ hậu thuẫn cho các hoạt động chống DeGaulle. Điều đó đúng không?
  Đáp: “Không, họ không ủng hộ những hoạt động chống DeGaulle. Quả thực là tôi đã có tiếp xúc với CIA ở Lisbon, gặp nhân viên CIA phụ trách Tây Aâu. Chúng tôi, CNR, đã có liên lạc với nhân viên ấy, nhưng với mục đích là lập một chương trình phát thanh thuộc loại chủ yếu là chống cộng Chúng tôi tìm người giúp đỡ, tìm hỗ trợ tài chính từ phía Mỹ để lập một đài phát thanh như thế. Nhưng kế hoạch không hề thành công vì cái chết của Kennedy. Sau đó Mỹ cũng cắt giảm ngân sách cho những kế hoạch như vậy”.
( Còn tiếp)
   Vụ ám sát Ngô Đình Diệm và J.F.Kennedy ( 1,2,3,4,5,6,7,8,9)

2 nhận xét:

  1. Thời kỳ Mỹ gây ra chiến tranh xâm lược Việt Nam, ngay chính trong chính trường Mỹ cũng có rất nhiều mâu thuẫn và vụ ám sát Tổng thống Mỹ là do nội bộ các phe phái của Mỹ gây ra

    Trả lờiXóa